Thơ chính luận Chế Lan Viên từ góc nhìn tư duy nghệ thuật - 5


Mũi tiến công thứ nhất xuất phát từ “ Nich xơn là kẻ giết ngườ i ”, đi qua

bao tôi

ác của quân thù dã man , tàn bạo , tác giả khẳng định với chúng : “Ta

sắp đươc

giết mà y” ( Tr.12)

Mũi thứ hai cũng xuất phát từ bản chất kẻ thù là hiếu chiến , “Nich xơn

đã nâng chiến tranh lên thà nh trăng mât

, tình yêu”, tác giả cũng đi qua bao

hành động đốt sạch , phá sạch của kẻ thù để khẳng định : “Là người ư , phải

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 131 trang tài liệu này.

diêt

lũ săn ngườ i – đấy là điṇ h nghia

Thơ chính luận Chế Lan Viên từ góc nhìn tư duy nghệ thuật - 5

( Tr 15).

Mũi thứ ba, tác giả đi từ truyền thống yêu nước, từ măṭ pháp lý của tình

yêu Tổ quốc để đaṭ tới : “Điṇ h nghia thù”((Tr.17).

Viêt

Nam là phải cầm vũ khí giết

Mũi thứ tư, tác giả lại đi từ tội ác – quân thù theo nghia

triết hoc

của no

– và đi tới kêu gọi cảnh giác : “ Hãy thức tỉnh , hãy sẵ n sà ng diêt

(Tr.19).

chú ng

Những mũi còn laị , tác giả cụ thể hóa tội ác chiến tranh phá hoại bằng

những chiếc máy bay quân thù , măṭ “lao đôn

g” của hoaṭ đôn

g giết người va

khẳng điṇ h: “ Vây

ta chỉ còn môt

con đườ ng giết chú ng mà thôi”.

̉ màn cho những mũi tiến công dồn dâp của tác giả và lời tuyên án đanh thép:

ấy là ̀i buôc

tôi

phủ đầu

“Nà o ta hãy cầm dao lên hóa kiếp đi cho nó”.

Tuy nhiên những mũi tiến công trên cũng chưa thâṭ phon g phú và đa

dạng. Hầu hết là cùn g xuất phát từ môt vi ̣trí , cùng đi qua một loạt các tội ác

ghê tởm của quân thù để dân

́i lời kêu goi

hành đôn

g . Các mũi tiến công đôi

khi còn thiếu môt

́ c maṇ h hiêp

đồng và thiếu h ẳn một cuộc “ tổng tiến công

chiến lươc

ở cuối bài thơ . Ưu thế lớn nhất của ông là đã vân

dun

g tư tưởng

cách mạng tiến công một cách sáng tạo , linh hoaṭ . Cái dũng khí tiên phong ,

xông xáo của người nghê ̣si ̃ thể hiên

môt

cách xuất sắc trong thơ Chế Lan

Viên. Hết lươt

này đến lươt

khác , ông luôn tao

điều kiên

để tổ chứ c hình ảnh ,


âm thanh , tiến công liên tuc , toàn diện vào kẻ thù chính của dân tộc . Do đo

tính chiến đấu là phẩm chất cơ bả n của thơ chính luântạo ra nhờ suy tưởng tổng hợp.

Chế Lan Viên, nó được

Do cách tổ chứ c những mũi nhon

tư tưởng như vây

, trong thơ chính

luâṇ , sự vân

đôn

g của hình tươn

g thơ tuy vân

lấy cảm xú c là m điểm tưa

nhưng cảm xúc lại phải tuân theo một cách nghiêm ngặt những luận điểm tư

tưởng sáng rõ – như môt cái sườn kêt́ cấu mà tác giả có thể hình dung ra ngay

̀ đầu . Tứ c là hướng suy tưởng đã đươc xác điṇ h , chỉ cần tìm hình ảnh phù

hơp

để triển khai theo. Từ ng hình ảnh thơ có khi trở thành những tiền đề phuc

vụ cho sự đúc kết tư tưởng . Đây là nguyên nhân làm cho thơ đánh giăc của

ông có tình traṇ g tư duy lô gic lấn át tư duy hình tươn

g ngay trong mac̣ h suy

tưởng. Hay nói đúng hơn, tư duy hình tươn mang tính khái quát, bao trùm:

g mang tính cá thể mà tư duy lôgic

“Hỡi anh , nhà bác học, để tìm một vệt sống, môt

chất

̃u sinh đã dà y công thá m hiểm các thiên ha Anh, nhà họa sĩ bỏ cả một đời để vẽ một đôi mắt

Ngườ i như mù a thu, như sóng bể

Anh, nuôi những tế bà o, ghép từng quả tim với tấm

lòng tạo hóa cưu mang của người bác sĩ

Anh, mong rủ xuống con ngườ i môt

giot

lê,̣ môt

cà nh

sương của những triết gia

Công của cá c anh chỉ là công cốc

Nếu chưa diêt

đươc

loà i đế quốc”.


( Những bài thơ đánh giăc )

[ 43,161-162-163-164]


Là người đầu tiên thí nghiệm có kết quả việc đưa các dáng dấp văn xuôi vào trong thơ . Ở những bài thành công , ta thấy Chế Lan Viên đã đưa

đươc

những câu thơ bề thế vào trong thơ, nhưng sự nhip

“Đảo Long Châu, ở đây chỉ có biển và trời

nhàng vân

đảm bảo:

và lời hát một ngọn hải đăng đã sáng trong ba ngà n đêm ra bão lử a không môt


giờ chiu


tắt.

Đảo đã nghìn lần nghe tiếng bom, phải được một lần nghe tiếng hát.

Tổ quốc bao la nghìn van đất nà y.”

dăm

nhưng nhớ nhất vân

là nơi đầu trờ i cuối

(Đối thoại mới –Tr 80).

Những trùng điêp

của ngôn ngữ đã tao

nên phong cách đôc

đáo trong

thơ Chế Lan Viên. Hình thức cơ bản trong thơ Chế Lan Viên là sự đối lập. Đối

lâp

trong thời gian, trong không gian, trong lòng người, đối lâp

cái nhỏ bé –vĩ

đaị, cái bi - cái hùng, văn minh – man rơ,

người –thú. Qua đối lâp

, Chế Lan

Viên nói lên môt quy luâṭ phát triên̉ cơ bản của sự vâṭ , tác động mạnh mẽ đến

trí tưởng tượng của người đọc . Chính sự đối lập ấy đã tạo nên sức đa diện và sự biến hóa cho những câu thơ :

.... “Xưa cha ông đi mà nay con chá u bắt đầu bay.

....Ngườ i ngã xuống tưa má u mình đứ ng dâỵ .

Ngườ i sống khiêng ngườ i chết đi xung phong”

(Hoa ngày thường-chim báo bao).

Trong những bài thơ chính luân dà i của Chế Lan Viên thường rất giàu

chất trí tuê .

Nhà thơ thường lấy sự suy nghi ̃ làm cơ sơ rồi vân

đôn

g , tổ chứ c

nó lại để tạo nên hình tượng thơ . Chế Lan Viên quan niêm

, thơ không chỉ tái

hiên

những hình ảnh của cuôc

sống , những rung đôn

g của trái tim , mà còn

phải đủ sức phản ánh những biến đông của tư duy.


Tạo nên vẻ đẹp độc đáo cho thơ Chế Lan Viên còn là do ngôn ngữ . Hình ảnh ngôn ngữ trong thơ Chế Lan Viên là ngôn ngữ mà mỗi từ , mỗi ngữ đều cựa quậy , có khả năng dựng dậy những cảm nghĩ trừu tượ ng nhất thành

những hình tươn

g cu ̣thể sinh đôn

g . Chế Lan Viên cũng là nhà thơ hay dùng

những điển cố và những thi liêu lic̣ h sử :

“Môi

chú bé đều là m mơ ngưa

sắt.

Môi

con sông đều muốn hóa Bac

h Đằng”

(Hoa ngày thường-chim báo bão).

Truyền thống của bốn nghìn năm lic̣ h sử của dân tôc với những thi liêu

như: trống đồng, chim lac̣ , đền Hùng đều được Chế Lan Viên khai thác và sư

dụng khá nhuần nhuyễn, tạo nên một cách nhìn nhận mới, cách cảm nhân gắn liền với thời đaị mới:

́i

“Ta ra đi từ nền văn minh trên lưu vưc

Cả dân tộc bay theo hình Chim Lạc.

sông Hồng.

Nhưng cho đến nay ta mớ i thưc

giống

Măt

trờ i ta trên những trống đồng.

Chiến thắng ấy và ̀ ng dương Tổ quốc”.

(Hái theo mùa Tr 123).

Chế Lan Viên đã ̉ dun

g điển tích và chất liêu

lic̣ h sử đúng chỗ sẽ đu

́ c làm sống laị những truyền thống anh hùng của dân tôc

. Nhà thơ đã xác

điṇ h cho mình phong cách cũng là đăṭ cho mình những giới haṇ . Chính vì vậy

thơ chính luân

Chế Lan Viên cũng có những ưu điểm và nhươc

điểm . Những

suy tưởng tổng hơp trong cấu tứ thơ đã khiêń thơ Chế Lan Viên đã quá lan

man, tác dụng thơ không tập trung kết cấu , thiếu ch ặt chẽ , tính quần chúng của thơ bị hạn chế.

1.3. Thơ chính luân

Chế Lan Viên


1.3.1. Sư ̣ hin Lan Viên

h thành và vân

đôn

g yếu tố chính luân

trong thơ Chê

Trong nền thơ ca Viêṭ Nam hiên

đaị Chế Lan Viên là nhà thơ có vi ̣tri

riêng. Người đoc

có thể thấy đươc

môt

hành trình thơ ca không phải chỉ của

riêng ông mà của cả môt

thế hệ của các nhà thơ Việt Nam, của cả một thời đại

cam go trong lic̣ h sử dân tôc̣ . Chế Lan Viên đã để laị môt

khối lươn

g tác phẩm

đổ sô ̣trong hơn nử a thế kỷ cầm bút . Đặc biệt những sáng tác ấy được khơi

nguồn trong môt

giai đoan

có nhiều biến đôn

g lớn lao của lic̣ h sử dân tôc .

Trước hay sau Cách maṇ g tháng Tám , trong thời chiến hay thời bì nh ông đều

cho ra đời những tác phẩm đươc

coi là đỉnh cao của thời đaị và để lai

những

ấn tượng đậ m nét trong lòng người đoc

. Nhìn tổng quát, chúng ta có thể thấy

sự vân

đôn

g biến đổi của cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên phát triển ,

biến đổi song hành cùng các chăṇ g đường tư tưởng và sáng tác của ông . Mỗi

giai đoan

, cái tôi trữ tình có màu sắc riêng , có sự khác nhau thâm

chí phủ

điṇ h. Chính sự vận động của cái tôi đã dẫn đến sự thay đổi quan điểm nghê

thuâṭ thẩm mỹ và hình tươn

g thơ . Đời thơ của Chế Lan Viên trải dài hơn nửa

thế kỷ, gắn bó mâṭ thiết với những thăng trầm lic̣ h sử , với hành trình của thơ ca dân tôc̣ .

* Giai đoan

trướ c Cá ch mang

Ngay từ khi còn là một cậu bé Chế Lan Viên đã có thơ và tru yên

ngắn

đăng trên các báo Tiếng trẻ, Khuyến hoc̣ , Phong hóa. Cùng với Hàn Mặc Tử , Yến Lan, Quách Tấn lập nên nhóm thơ Bình Định nổi tiếng và tạo một dấu ấn

đôc

đáo cho Thơ mới đương thời.

Cùng với Hàn Mặc Tử , Chế Lan Viên là chủ tướng của nhóm thơ Bình

Điṇ h với cái tên Trường thơ loan . Không nằm ngoài quan điêm̉ thoát ly hiên

thưc

của Văn hoc

lan

g man

, khuynh hướng thẩm mỹ của Chế lan Viên cũng

có những điểm đáng chú ý . Qua tâp

Điêu tà n ”, Chế Lan Viên đưa ra môt


quan niêm

thơ độc đáo : “Hà n Măc

̉ nói: làm thơ túc là điên. Tôi nói thêm:

làm thơ là sự phi thường . Thi sĩ không phải là Ngườ i. Nó là ngườ i Mơ, ngườ i Say, ngườ i Điên. Nó là Tiên, là Ma, là Quỷ, là Tinh, là Yêu. Nó thoát hiện tại,

nó xối trộn dĩ vãng . Nó ôm trùm tương lai . Ngườ i ta không thể hiểu đươc vì

nó nói những cái vô nghĩa, tuy rằng những cá i vô nghĩa hợp lý [51,13]. Chính

quan niêm

đôc

đáo khác người này đã hướng hồ n thơ Chế Lan Viên đến môt

thế giới đầy “kinh di , lẻ loi và bí mật” như Hoài Thanh đ ã đã nhận xét về

Điêu tàn. Những tháp Chàm điêu tàn đổ nát có thể nói là môt nguồn cảm hứ ng

́n đáng chú ý của Chế Lan Viên . Qua những phế tích đổ n át ta thấy ẩn hiện

hình bóng của môt vương quốc hùng maṇ h thời vàng son cùng với nỗi niêm̀

hoài cổ của nhà thơ.

Tâp

thơ “Điêu tà n” đã đột ngột xuất hiện như một niềm kinh dị , bởi

tuy đăt

vào bối cảnh chung của thơ mới , nhưng tâp

thơ vân

đầy những nét

khác lạ . Tuy nhiên, điểm găp

̃ giữa Chế Lan Viên và những nhà thơ mới

cùng thời là ở chỗ , Chế Lan V iên đã cùng ho ̣dấy lên đươc

cả môt

thời đai

́i trong thi ca Viêṭ Nam, đã đưa cái Tôi trưc tiêṕ vào trong thơ.

Trong khi các thi si ̃ của phong trào Thơ Mới thoát ly trong mông tưởng

, đắm mình trong thế giới của tình yêu cá nh ân, hay trốn mình vào cái tôi rơn

ngơp

thì Chế Lan Viên laị chon

cho mình môt

khách thể thẩm mỹ mang tính

hư cấu –siêu hình –kinh di. của Chiêm Quốc.

Thế giới củ a xương khô, sọ người, sự diêṭ vong

Khác với Chế Lan Viên , Thế Lữ thoát ly vào cõi bồng lai tiên cảnh .

Chế Lan Viên laị trở về thiên thai để chiếm li ̃ nh môt xa vắng và yên bình tuyêṭ đối:

không gian trong sáng ,

“Tiên Nga tóc xo

bên nguồn.

Hàng tùng rut rỉ trên cồn đìu hiu Mây hồng ngừ ng lại sau đèo.


Mình cây nắng nhuộn ,bóng chiều không đi”

(Tiếng sáo thiên thai) Chán ghét cõi trần để rồi tìm vào cõi tiên . Tuy nhiên, sự mơ nào cũng

có bóng dáng hiện thực – môt

nỗi buồn mênh mang xa vắng của môt

cái tôi

cô đơn đươc

Thế Lữ ̉ i vào cõi tiên:

“Tiếng đưa hiu hắt bên lòng

Buồn ơi! Xa vắng mênh mông là buồn”

Nỗi đau khổ của thi nhân trên cõi trần gian đươc

bôc

lô ̣bằng cảm xúc

“Trờ i hỡi trờ i hôm nay ta chá n hết.

Những sắc mà u hình ảnh của trần gian”


“Vì u buồn là những đóa hoa tươi Và đau khổ là chiến công rực rỡ”


(Tạo lập)

(Đừng quên lãng).

Chán coĩ trần thế , Chế Lan Viên cũng như bao nhà thơ lan

g man

khác

,ông hướng những vần thơ của mình vào cõi đia

nguc

tối tăm. Đau buồn trước

thưc

taị, ông lẩn trốn vào quá khứ :

“Ai đâu trở lai


mù a thu trướ c.

Nhăt

lấy cho tôi những lá và ng .

́ i của hoa tươi muôn cá nh rã Về đây đem chắn nẻo xuân sang”


(Xuân-Điêu tàn).

Trong “Điêu tàn” tràn ngập một khối buồ n, buồn sâu . Nhưng không phải lúc nào tác giả của nó cũng chỉ biết đến u hoài chán nản . Trong bài thơ “Xuân về” ở trên, ta thấy con ng ười đó có ý thức rõ ràng , cũng mong m uốn

“vui cườ i”, “dep sầu bi”, muốn hát bài ca chào đón xuân như bao người chư

không phải đơn đôc

môt

mình “chắn nẻo xuân sang” . Giữa mong muốn va


hiên

thưc

những mâu thuân

đã nảy sinh : Mong muốn là thế song hiên

thưc la

sự đối lâp

giữa muôn vui tươi – lòng lạnh giá . Điều này phản ánh những đối

cưc

không sao giải quyết đươc

trong lòng tác giả . Cho dù xuân về , niềm vui

đến nhưng con người đón nhận với một tâm hồn băng giá lạnh lùng , môt ta cho riêng mình cũng được tác giả Điêu tà n vẽ lên thật cụ thể:

“Ôi bá t ngá t mênh mông như Âm giớ i .

cõi

Đây co

ta rôn

g rãi đến vô biên”

Trong thơ Chế Lan Viên cõi ta ấy là môt nhưng dường như cũng hết sứ c nhỏ bé:

thế giới vô cùng rôn

g lớn

“Nhưng cũng là nơi ai ơi bé nhỏ. Nơi khó dò,khó biết,khó suy tường”.


(Cõi ta, Điêu tàn).

Chế Lan Viên đã làm hiên

ra trước mắt người đoc

môt

cõi ta vừ a mênh

mông vừ a bé nhỏ , vừ a rôn

g rai

laị vừ a sâu x a qua những câu thơ trên . Chế

Lan Viên đã tự tao

cho mình môt

cõi ta siêu hình nhưng măṭ khác cũng muốn

vươt

thoát khỏi nó nên điều đó không tránh khỏi mâu thuân.

Chế Lan Viên vân

chứ ng tỏ mình luôn có những băn khoăn, trăn trở ́i

những mối quan hê ̣đang vân

đôn

g trong đời sống hiên

tai

. Ông luôn tự hỏi

lòng, luôn xót xa đau đớn tự đáy lòng mình :

“Ta rơi xuống co

đờ i.

̀ cầu nà o?Từ thờ i nà o trong vũ tru? Để là m gì?Nếu không là than thở.

Nhưng nướ c non dân tôc đã tan rồi.”

Tiếng thơ của Chế Lan Viên đã tao

đươc

tiếng nối riêng ngay từ ̀i tưa

cho tâp

thơ đầu tay. Ông đã đưa ra những quan điể m về thơ, về người làm thơ

hết sứ c mới la ,

thể hiên

sự đối lâp

giữa người làm thơ vơi người bình thườ ng.

Chính điều ấy đã tạo ra sự khác biệt cho mỗi nhà thơ của phong trào Thơ Mới.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 19/02/2024