Mũi tiến công thứ nhất xuất phát từ “ Nich xơn là kẻ giết ngườ i ”, đi qua
bao tôi
ác của quân thù dã man , tàn bạo , tác giả khẳng định với chúng : “Ta
sắp đươc
giết mà y” ( Tr.12)
Mũi thứ hai cũng xuất phát từ bản chất kẻ thù là hiếu chiến , “Nich xơn
đã nâng chiến tranh lên thà nh trăng mât
, tình yêu”, tác giả cũng đi qua bao
hành động đốt sạch , phá sạch của kẻ thù để khẳng định : “Là người ư , phải
Có thể bạn quan tâm!
- Thơ chính luận Chế Lan Viên từ góc nhìn tư duy nghệ thuật - 2
- Khái Niệm Về Tư Duy Thơ 1.1.1.khái Niệm Về Tư Duy
- Thơ chính luận Chế Lan Viên từ góc nhìn tư duy nghệ thuật - 4
- Thơ chính luận Chế Lan Viên từ góc nhìn tư duy nghệ thuật - 6
- Chính Luận Như Yếu Tố Cốt Lõi Tạo Nên Phong Cách Chế Lan
- Thơ chính luận Chế Lan Viên từ góc nhìn tư duy nghệ thuật - 8
Xem toàn bộ 131 trang tài liệu này.
diêt
lũ săn ngườ i – đấy là điṇ h nghia
” ( Tr 15).
Mũi thứ ba, tác giả đi từ truyền thống yêu nước, từ măṭ pháp lý của tình
yêu Tổ quốc để đaṭ tới : “Điṇ h nghia thù”((Tr.17).
Viêt
Nam là phải cầm vũ khí giết
Mũi thứ tư, tác giả lại đi từ tội ác – quân thù theo nghia
triết hoc
của no
– và đi tới kêu gọi cảnh giác : “ Hãy thức tỉnh , hãy sẵ n sà ng diêt
(Tr.19).
chú ng ”
Những mũi còn laị , tác giả cụ thể hóa tội ác chiến tranh phá hoại bằng
những chiếc máy bay quân thù , măṭ “lao đôn
g” của hoaṭ đôn
g giết người va
khẳng điṇ h: “ Vây
ta chỉ còn môt
con đườ ng giết chú ng mà thôi”.
Mở màn cho những mũi tiến công dồn dâp của tác giả và lời tuyên án đanh thép:
ấy là lời buôc
tôi
phủ đầu
“Nà o ta hãy cầm dao lên hóa kiếp đi cho nó”.
Tuy nhiên những mũi tiến công trên cũng chưa thâṭ phon g phú và đa
dạng. Hầu hết là cùn g xuất phát từ môt vi ̣trí , cùng đi qua một loạt các tội ác
ghê tởm của quân thù để dân
tới lời kêu goi
hành đôn
g . Các mũi tiến công đôi
khi còn thiếu môt
sứ c maṇ h hiêp
đồng và thiếu h ẳn một cuộc “ tổng tiến công
chiến lươc
” ở cuối bài thơ . Ưu thế lớn nhất của ông là đã vân
dun
g tư tưởng
cách mạng tiến công một cách sáng tạo , linh hoaṭ . Cái dũng khí tiên phong ,
xông xáo của người nghê ̣si ̃ thể hiên
môt
cách xuất sắc trong thơ Chế Lan
Viên. Hết lươt
này đến lươt
khác , ông luôn tao
điều kiên
để tổ chứ c hình ảnh ,
âm thanh , tiến công liên tuc , toàn diện vào kẻ thù chính của dân tộc . Do đo
tính chiến đấu là phẩm chất cơ bả n của thơ chính luântạo ra nhờ suy tưởng tổng hợp.
Chế Lan Viên, nó được
Do cách tổ chứ c những mũi nhon
tư tưởng như vây
, trong thơ chính
luâṇ , sự vân
đôn
g của hình tươn
g thơ tuy vân
“ lấy cảm xú c là m điểm tưa ”
nhưng cảm xúc lại phải tuân theo một cách nghiêm ngặt những luận điểm tư
tưởng sáng rõ – như môt cái sườn kêt́ cấu mà tác giả có thể hình dung ra ngay
từ đầu . Tứ c là hướng suy tưởng đã đươc xác điṇ h , chỉ cần tìm hình ảnh phù
hơp
để triển khai theo. Từ ng hình ảnh thơ có khi trở thành những tiền đề phuc
vụ cho sự đúc kết tư tưởng . Đây là nguyên nhân làm cho thơ đánh giăc của
ông có tình traṇ g tư duy lô gic lấn át tư duy hình tươn
g ngay trong mac̣ h suy
tưởng. Hay nói đúng hơn, tư duy hình tươn mang tính khái quát, bao trùm:
g mang tính cá thể mà tư duy lôgic
“Hỡi anh , nhà bác học, để tìm một vệt sống, môt
chất
hữu sinh đã dà y công thá m hiểm các thiên ha Anh, nhà họa sĩ bỏ cả một đời để vẽ một đôi mắt
Ngườ i như mù a thu, như sóng bể
Anh, nuôi những tế bà o, ghép từng quả tim với tấm
lòng tạo hóa cưu mang của người bác sĩ
Anh, mong rủ xuống con ngườ i môt
giot
lê,̣ môt
cà nh
sương của những triết gia
Công của cá c anh chỉ là công cốc
Nếu chưa diêt
đươc
loà i đế quốc”.
( Những bài thơ đánh giăc )
[ 43,161-162-163-164]
Là người đầu tiên thí nghiệm có kết quả việc đưa các dáng dấp văn xuôi vào trong thơ . Ở những bài thành công , ta thấy Chế Lan Viên đã đưa
đươc
những câu thơ bề thế vào trong thơ, nhưng sự nhip
“Đảo Long Châu, ở đây chỉ có biển và trời
nhàng vân
đảm bảo:
và lời hát một ngọn hải đăng đã sáng trong ba ngà n đêm ra bão lử a không môt
giờ chiu
tắt.
Đảo đã nghìn lần nghe tiếng bom, phải được một lần nghe tiếng hát.
Tổ quốc bao la nghìn van đất nà y.”
dăm
nhưng nhớ nhất vân
là nơi đầu trờ i cuối
(Đối thoại mới –Tr 80).
Những trùng điêp
của ngôn ngữ đã tao
nên phong cách đôc
đáo trong
thơ Chế Lan Viên. Hình thức cơ bản trong thơ Chế Lan Viên là sự đối lập. Đối
lâp
trong thời gian, trong không gian, trong lòng người, đối lâp
cái nhỏ bé –vĩ
đaị, cái bi - cái hùng, văn minh – man rơ,
người –thú. Qua đối lâp
, Chế Lan
Viên nói lên môt quy luâṭ phát triên̉ cơ bản của sự vâṭ , tác động mạnh mẽ đến
trí tưởng tượng của người đọc . Chính sự đối lập ấy đã tạo nên sức đa diện và sự biến hóa cho những câu thơ :
.... “Xưa cha ông đi mà nay con chá u bắt đầu bay.
....Ngườ i ngã xuống tưa má u mình đứ ng dâỵ .
Ngườ i sống khiêng ngườ i chết đi xung phong”
(Hoa ngày thường-chim báo bao).
Trong những bài thơ chính luân dà i của Chế Lan Viên thường rất giàu
chất trí tuê .
Nhà thơ thường lấy sự suy nghi ̃ làm cơ sơ rồi vân
đôn
g , tổ chứ c
nó lại để tạo nên hình tượng thơ . Chế Lan Viên quan niêm
, thơ không chỉ tái
hiên
những hình ảnh của cuôc
sống , những rung đôn
g của trái tim , mà còn
phải đủ sức phản ánh những biến đông của tư duy.
Tạo nên vẻ đẹp độc đáo cho thơ Chế Lan Viên còn là do ngôn ngữ . Hình ảnh ngôn ngữ trong thơ Chế Lan Viên là ngôn ngữ mà mỗi từ , mỗi ngữ đều cựa quậy , có khả năng dựng dậy những cảm nghĩ trừu tượ ng nhất thành
những hình tươn
g cu ̣thể sinh đôn
g . Chế Lan Viên cũng là nhà thơ hay dùng
những điển cố và những thi liêu lic̣ h sử :
“Môi
chú bé đều là m mơ ngưa
sắt.
Môi
con sông đều muốn hóa Bac
h Đằng”
(Hoa ngày thường-chim báo bão).
Truyền thống của bốn nghìn năm lic̣ h sử của dân tôc với những thi liêu
như: trống đồng, chim lac̣ , đền Hùng đều được Chế Lan Viên khai thác và sư
dụng khá nhuần nhuyễn, tạo nên một cách nhìn nhận mới, cách cảm nhân gắn liền với thời đaị mới:
mới
“Ta ra đi từ nền văn minh trên lưu vưc
Cả dân tộc bay theo hình Chim Lạc.
sông Hồng.
Nhưng cho đến nay ta mớ i thưc
giống
Măt
trờ i ta trên những trống đồng.
Chiến thắng ấy và vừ ng dương Tổ quốc”.
(Hái theo mùa Tr 123).
Chế Lan Viên đã sử dun
g điển tích và chất liêu
lic̣ h sử đúng chỗ sẽ đu
sứ c làm sống laị những truyền thống anh hùng của dân tôc
. Nhà thơ đã xác
điṇ h cho mình phong cách cũng là đăṭ cho mình những giới haṇ . Chính vì vậy
thơ chính luân
Chế Lan Viên cũng có những ưu điểm và nhươc
điểm . Những
suy tưởng tổng hơp trong cấu tứ thơ đã khiêń thơ Chế Lan Viên đã quá lan
man, tác dụng thơ không tập trung kết cấu , thiếu ch ặt chẽ , tính quần chúng của thơ bị hạn chế.
1.3. Thơ chính luân
Chế Lan Viên
1.3.1. Sư ̣ hin Lan Viên
h thành và vân
đôn
g yếu tố chính luân
trong thơ Chê
Trong nền thơ ca Viêṭ Nam hiên
đaị Chế Lan Viên là nhà thơ có vi ̣tri
riêng. Người đoc
có thể thấy đươc
môt
hành trình thơ ca không phải chỉ của
riêng ông mà của cả môt
thế hệ của các nhà thơ Việt Nam, của cả một thời đại
cam go trong lic̣ h sử dân tôc̣ . Chế Lan Viên đã để laị môt
khối lươn
g tác phẩm
đổ sô ̣trong hơn nử a thế kỷ cầm bút . Đặc biệt những sáng tác ấy được khơi
nguồn trong môt
giai đoan
có nhiều biến đôn
g lớn lao của lic̣ h sử dân tôc .
Trước hay sau Cách maṇ g tháng Tám , trong thời chiến hay thời bì nh ông đều
cho ra đời những tác phẩm đươc
coi là đỉnh cao của thời đaị và để lai
những
ấn tượng đậ m nét trong lòng người đoc
. Nhìn tổng quát, chúng ta có thể thấy
sự vân
đôn
g biến đổi của cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên phát triển ,
biến đổi song hành cùng các chăṇ g đường tư tưởng và sáng tác của ông . Mỗi
giai đoan
, cái tôi trữ tình có màu sắc riêng , có sự khác nhau thâm
chí phủ
điṇ h. Chính sự vận động của cái tôi đã dẫn đến sự thay đổi quan điểm nghê
thuâṭ thẩm mỹ và hình tươn
g thơ . Đời thơ của Chế Lan Viên trải dài hơn nửa
thế kỷ, gắn bó mâṭ thiết với những thăng trầm lic̣ h sử , với hành trình của thơ ca dân tôc̣ .
* Giai đoan
trướ c Cá ch mang
Ngay từ khi còn là một cậu bé Chế Lan Viên đã có thơ và tru yên
ngắn
đăng trên các báo Tiếng trẻ, Khuyến hoc̣ , Phong hóa. Cùng với Hàn Mặc Tử , Yến Lan, Quách Tấn lập nên nhóm thơ Bình Định nổi tiếng và tạo một dấu ấn
đôc
đáo cho Thơ mới đương thời.
Cùng với Hàn Mặc Tử , Chế Lan Viên là chủ tướng của nhóm thơ Bình
Điṇ h với cái tên Trường thơ loan . Không nằm ngoài quan điêm̉ thoát ly hiên
thưc
của Văn hoc
lan
g man
, khuynh hướng thẩm mỹ của Chế lan Viên cũng
có những điểm đáng chú ý . Qua tâp
“ Điêu tà n ”, Chế Lan Viên đưa ra môt
quan niêm
thơ độc đáo : “Hà n Măc
Tử nói: làm thơ túc là điên. Tôi nói thêm:
làm thơ là sự phi thường . Thi sĩ không phải là Ngườ i. Nó là ngườ i Mơ, ngườ i Say, ngườ i Điên. Nó là Tiên, là Ma, là Quỷ, là Tinh, là Yêu. Nó thoát hiện tại,
nó xối trộn dĩ vãng . Nó ôm trùm tương lai . Ngườ i ta không thể hiểu đươc vì
nó nói những cái vô nghĩa, tuy rằng những cá i vô nghĩa hợp lý [51,13]. Chính
quan niêm
đôc
đáo khác người này đã hướng hồ n thơ Chế Lan Viên đến môt
thế giới đầy “kinh di , lẻ loi và bí mật” như Hoài Thanh đ ã đã nhận xét về
Điêu tàn. Những tháp Chàm điêu tàn đổ nát có thể nói là môt nguồn cảm hứ ng
lớn đáng chú ý của Chế Lan Viên . Qua những phế tích đổ n át ta thấy ẩn hiện
hình bóng của môt vương quốc hùng maṇ h thời vàng son cùng với nỗi niêm̀
hoài cổ của nhà thơ.
Tâp
thơ “Điêu tà n” đã đột ngột xuất hiện như một niềm kinh dị , bởi
tuy đăt
vào bối cảnh chung của thơ mới , nhưng tâp
thơ vân
đầy những nét
khác lạ . Tuy nhiên, điểm găp
gỡ giữa Chế Lan Viên và những nhà thơ mới
cùng thời là ở chỗ , Chế Lan V iên đã cùng ho ̣dấy lên đươc
cả môt
thời đai
mới trong thi ca Viêṭ Nam, đã đưa cái Tôi trưc tiêṕ vào trong thơ.
Trong khi các thi si ̃ của phong trào Thơ Mới thoát ly trong mông tưởng
, đắm mình trong thế giới của tình yêu cá nh ân, hay trốn mình vào cái tôi rơn
ngơp
thì Chế Lan Viên laị chon
cho mình môt
khách thể thẩm mỹ mang tính
hư cấu –siêu hình –kinh di. của Chiêm Quốc.
Thế giới củ a xương khô, sọ người, sự diêṭ vong
Khác với Chế Lan Viên , Thế Lữ thoát ly vào cõi bồng lai tiên cảnh .
Chế Lan Viên laị trở về thiên thai để chiếm li ̃ nh môt xa vắng và yên bình tuyêṭ đối:
không gian trong sáng ,
“Tiên Nga tóc xo
bên nguồn.
Hàng tùng rut rỉ trên cồn đìu hiu Mây hồng ngừ ng lại sau đèo.
Mình cây nắng nhuộn ,bóng chiều không đi”
(Tiếng sáo thiên thai) Chán ghét cõi trần để rồi tìm vào cõi tiên . Tuy nhiên, sự mơ nào cũng
có bóng dáng hiện thực – môt
nỗi buồn mênh mang xa vắng của môt
cái tôi
cô đơn đươc
Thế Lữ gử i vào cõi tiên:
“Tiếng đưa hiu hắt bên lòng
Buồn ơi! Xa vắng mênh mông là buồn”
Nỗi đau khổ của thi nhân trên cõi trần gian đươc
bôc
lô ̣bằng cảm xúc
“Trờ i hỡi trờ i hôm nay ta chá n hết.
Những sắc mà u hình ảnh của trần gian”
“Vì u buồn là những đóa hoa tươi Và đau khổ là chiến công rực rỡ”
(Tạo lập)
(Đừng quên lãng).
Chán coĩ trần thế , Chế Lan Viên cũng như bao nhà thơ lan
g man
khác
,ông hướng những vần thơ của mình vào cõi đia
nguc
tối tăm. Đau buồn trước
thưc
taị, ông lẩn trốn vào quá khứ :
“Ai đâu trở lai
mù a thu trướ c.
Nhăt
lấy cho tôi những lá và ng .
Vớ i của hoa tươi muôn cá nh rã Về đây đem chắn nẻo xuân sang”
(Xuân-Điêu tàn).
Trong “Điêu tàn” tràn ngập một khối buồ n, buồn sâu . Nhưng không phải lúc nào tác giả của nó cũng chỉ biết đến u hoài chán nản . Trong bài thơ “Xuân về” ở trên, ta thấy con ng ười đó có ý thức rõ ràng , cũng mong m uốn
“vui cườ i”, “dep sầu bi”, muốn hát bài ca chào đón xuân như bao người chư
không phải đơn đôc
môt
mình “chắn nẻo xuân sang” . Giữa mong muốn va
hiên
thưc
những mâu thuân
đã nảy sinh : Mong muốn là thế song hiên
thưc la
sự đối lâp
giữa muôn vui tươi – lòng lạnh giá . Điều này phản ánh những đối
cưc
không sao giải quyết đươc
trong lòng tác giả . Cho dù xuân về , niềm vui
đến nhưng con người đón nhận với một tâm hồn băng giá lạnh lùng , môt ta cho riêng mình cũng được tác giả Điêu tà n vẽ lên thật cụ thể:
“Ôi bá t ngá t mênh mông như Âm giớ i .
cõi
Đây co
ta rôn
g rãi đến vô biên”
Trong thơ Chế Lan Viên cõi ta ấy là môt nhưng dường như cũng hết sứ c nhỏ bé:
thế giới vô cùng rôn
g lớn
“Nhưng cũng là nơi ai ơi bé nhỏ. Nơi khó dò,khó biết,khó suy tường”.
(Cõi ta, Điêu tàn).
Chế Lan Viên đã làm hiên
ra trước mắt người đoc
môt
cõi ta vừ a mênh
mông vừ a bé nhỏ , vừ a rôn
g rai
laị vừ a sâu x a qua những câu thơ trên . Chế
Lan Viên đã tự tao
cho mình môt
cõi ta siêu hình nhưng măṭ khác cũng muốn
vươt
thoát khỏi nó nên điều đó không tránh khỏi mâu thuân.
Chế Lan Viên vân
chứ ng tỏ mình luôn có những băn khoăn, trăn trở với
những mối quan hê ̣đang vân
đôn
g trong đời sống hiên
tai
. Ông luôn tự hỏi
lòng, luôn xót xa đau đớn tự đáy lòng mình :
“Ta rơi xuống co
đờ i.
Từ cầu nà o?Từ thờ i nà o trong vũ tru? Để là m gì?Nếu không là than thở.
Nhưng nướ c non dân tôc đã tan rồi.”
Tiếng thơ của Chế Lan Viên đã tao
đươc
tiếng nối riêng ngay từ lời tưa
cho tâp
thơ đầu tay. Ông đã đưa ra những quan điể m về thơ, về người làm thơ
hết sứ c mới la ,
thể hiên
sự đối lâp
giữa người làm thơ vơi người bình thườ ng.
Chính điều ấy đã tạo ra sự khác biệt cho mỗi nhà thơ của phong trào Thơ Mới.