Chính Luận Như Yếu Tố Cốt Lõi Tạo Nên Phong Cách Chế Lan


Nghe dà o dạt mười bốn triệu miền Nam đang tỉnh thức

Không! Ba mươi triêu kim cương của thiên hà Tổ quốc!

Không! Hàng triệu ngôi sao sáng anh em đang chiếm lĩnh bầu trời

́ a môt

Mù a Găt

́ n ngà y mai!”

Có thể thấy qua “ Hoa ngà y thườ ng c him bá o bão” Chế Lan Viên đa

khác họa sâu sắc chân dung tinh thần của thế hệ , thời đaị mà biểu hiên

tâp

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 131 trang tài liệu này.

trung nhất vân lươc̣ .

là đề tài ca ngơi

Thơ chính luận Chế Lan Viên từ góc nhìn tư duy nghệ thuật - 7

Tổ quốc , nhân dân và tố cáo tôi

ác kẻ thù xâm

Trong “ Những bà i thơ đá nh giặ c”, mỗi câu thơ đã trở thành môṭ vũ khí giết quân thù . Chế Lan Viên đã không dừ ng laị ở bản chất chung

thư

chung, mà mổ xẻ cái bản chất của chúng ra , cố gắng chup

ảnh phía sau lưng

thằng đế quốc để lâṭ đi lâṭ lai

, đánh giá thật chính xác kẻ thù dân tộc . Không

chỉ tìm hiểu bản chất của chúng mà còn giải thích cái bản chất ấy , tìm về căn nguyên bản chất:

“Giết

Triết

Triết rồi lai


giết

Thế kỷ hai mươi không dễ nữa rồi Phải có “cái gì” thì ́ i xuôi

Tên bao

chú a bà y ra hoc

thuyết”

(Những bài thơ đánh giăc̣ )

“Đối thoại mới ”(1973), tâp

thơ tiếp nối cái hơi thở khỏe khoắn , vang

đôn

g của các bài thơ chống Mỹ ở các tâp

“Hoa ngà y thườ ng- chim bá o bão”,

“Những bà i thơ đá nh giăc

”. Đó là những bài: Trân

tuyến nà y cao hơn cả mà u

da, Tùy bút một mùa xuân đánh giặc , Nghĩ suy 68, Đối thoại mới về câu

chuyên

cổ, Tuyên bố của môi

lòng ngườ i , khẩu sú ng, nhành hoa, Đường sáng


tuyêt

̀ i....Những bài thơ đã đánh dấu môt

cái mốc thời sự lic̣ h sử , suốt trong

những năm tháng chống Mỹ.

Có thể nói “ Đối thoại mới ” là sự kết hơp


phong phú nhiều mảng màu

trong thơ Chế Lan Viên . Tâp

thơ như môt

chùm hoa bất chấ p cỗi cằn sỏi đa

của thời gian . Từ tâp thơ “ ̉ i cá c anh , Ánh sáng và phù sa đến Hoa ngày

thườ ng chim bá o bão, Những bà i thơ đá nh giăc

và Đối thoai

́ i”, vai trò của

Chế Lan Viên trong nền thơ dân tôc

ngày càng đươc

khẳng điṇ h.

̀ sau năm 1975 đến khi đất nước thống nhất , cuôc sống hòa bình bắt

đầu nảy sinh những phứ c tap

. Do vây

thơ Chế Lan Viên giai đoan

này dần đi

vào thể tài đạo đức , thế sự, hướng vào các vấn đề muôn thuở của cõi nhân

sinh. Con người đời tư, con người thế sự – đao đứ c phát triên̉ . Cái tôi riêng tư

xuất hiên

ngày càng rõ nét. Tiêu biểu trong giai đoan

này là các tâp

thơ “ Hoa

trướ c lăng Ngườ i ( 1976), Hái theo mùa (1977), Hoa trên đá ( 1984).

Trong tâp

thơ “ Hoa trướ c lăng Ngườ i” , Chế Lan Viên đã phác thảo

chân dung Bác Hồ kính yêu – hình tượng một con người vĩ đại . Nhiều bài thơ

viết về Bác với cảm hứ ng ngơi

ca , tình cảm chân thành biết ơn sâu sắc bằng

những hình ảnh phong phú , ý tứ mới lạ , phong cách đôc đáo . Những bài thơ

trong tâp

thơ này như: Đoc

văn Ngườ i, Di chú c của Ngườ i, Bể và Ngườ i...đều

là những bài thơ trong đó , Chế Lan Viên không chỉ khắc hoa chân dung của

Bác mà còn phát hiện ra những bão táp cách mạng qua con người Bác . Nhà

thơ đã nhìn Bác từ nhiều góc đô ̣, nhiều quan hê:

Bác Hồ người thủy thủ , Bác

Hồ người thơ ̣ ảnh , người cha , người ông , nhà hiền triết ...và đi đến một ý

niêm:


“Bá c nằm kia như môt


sự kết tinh

Trăm cuôc sống

Cuôc

sống nà o cũng đep”


Trong bài “ Bể và Ngườ i ” lối cấu tứ đôc

đáo đươc

thể hiên

rõ nét . Cái

mênh mông trầm tư của bể , những quy luâṭ của bể như có liên quan sâu xa

đến c uôc

sống của Bác . Hay nói đúng hơn Bác đã nắm đươc

lẽ huyền diêu

của tự nhiên . Điều quan tron nghĩ tiếp:

g là cách Chế Lan Viên gơi

ý cho chúng ta suy

“Ngôi nhà sà n giữa vườ n hoa môc Khi sao lên có dá ng con tà u

Bác lên boong trắng ngờ i râu tóc Gió trong vườn sóng vỗ lao xao”

“Há i theo mù a” tâp thơ thứ sáu với 76 bài, hơn 40 bài thơ tứ tuyệt là sự

kết hơp

giữa âm hưởng của sử thi trong những bài thơ đánh giăc

̉ rô ̣giai

đoan

1967- 1972 và những cảm đời thường , luôn cháy sáng ngon

̉ a nhiêt

tình sáng tạo. “Hái theo mùa” cho ta thấy cái sắc sảo cu ả Chế Lan Viên trước kẻ thù , cái gian lao của dân tộc để giành chiến thắng trước kẻ thù hung ác cùng những khát khao đầy nhân văn. Có thể nói tập thơ “Hái theo mùa” là tâp̣

thơ vân

chính.

theo phong cách suy tưởng về dân tôc

và thời đaị với âm điêu

̉ thi la

“Hoa trên đá là tập thơ thứ chín của Chế Lan Viên. Tâp

thơ có tính chất chuyể n giai đoan

rõ nhất thể hiên

rõ khuynh hướng vân

đông

thơ Chế Lan Viên trong những năm cuối đời, cũng là chặng cuối cùng của quá trình tìm đường của một đời thơ.

Hoa trên đá ” đã khẳng điṇ h sứ c sáng tao bất diêṭ của Chế Lan Viên

trong hành trình sáng tao

thi ca

* Thơ Chế Lan Viên những năm cuối đời

Chế Lan Viên đã làm nên “niềm kinh di” ́i “Di cảo thơ”, khiêń người

đoc

ngac

nhiên, khâm phuc

những quan niêm

nghê ̣thuâṭ bổ sung đăc

sắc.


Bước vào những năm cuối đời, Chế Lan Viên năṇ g triu những suy tư về

cuôc

đời, về sự nghiêp

. Ông luôn trăn trở về thơ, về người làm thơ . Chế Lan

Viên phát hiên

ra những vấn đề thuôc

bản chất con người , thi ca và thi si.

Nhà

thơ dườ ng như đang ngup

lăn

vào đáy sâu bể loài người , hòa nhập mình với

cuôc

đời trần thế đầy những trăn trở . Điều đó đã tao

thêm chất cảm xúc và sâu

lắng, giảm bớt đi chất chính luận.

Cuối đời mình, Chế Lan Viên vân


là con người duy lí sắc sảo, hoài nghi

để tìm ra một định hướng cho thơ . Sự hoài nghi ấy chứ a đưn

g nỗi đau . Nhà

thơ tự vấn và tự thoaị môt mình ( Hỏi- đáp).

cách mơ hồ về sự hiên

̃u của chính bản thân

Giai đoan

Cách maṇ g , Chế Lan Viên tự hào thay cho các anh em nghê

sĩ bởi họ mang trọng trách cao cả và thật phi thường:

“Vóc nhà thơ đứ ng ngang tầm chiến lũy

Bên những dũng sĩ diêt

xe tăng ngoà i đồng và hạ trưc

thăng rơi”

Vây

mà giờ đây, ông nuối tiếc, tự mâu thuâñ

“Tôi chỉ là nhà thơ cưỡi trâu”

́i mình:

Chế Lan Viên ha ̣bê ̣vi ̣trí của những người làm thơ xuống , coi ho ̣như

những người diên

xiếc, những chú hề làm trò mua vui cho người đời:

“Vi ̣trí nhà thơ như rá c đổ thù ng

Làm thơ ngày nay như người diễn xiếc Như chú hề yêu cô nà ng mắt biếc”

( Quan niêm về thơ)

Nếu nói thơ chính là người thì qua thơ chúng ta hiểu rõ nhà thơ . Đó la

nguyên lý mang tính cổ điển . Bởi vì thơ chính là sự thể hiên

chân thâṭ nhất ,

sâu sắc nhất tư tưởng và tâm hồn người làm ra nó . Đoc

ba tâp

Di cảo thơ”

của Chế Lan Viên, ta có thể dễ dàng nhân

ra điều này . Ta thấy có môt

Chế

Lan Viên vừ a quen vừ a la ̣ , hiên

diên

qua môt

số b ài thơ viết về chính mình .


Trong “Di cảo thơ” của Chế Lan Viên ta bắt gặp khá nhiều bài thơ có tính

chất như bản tổng kết về đời mình . Mỗi bài thơ như môṭ vành móng ngựa của thời gian . Không bi quan, không lac

̀i nói cuối trước quan , mà là chiêm

nghiêm

. Những chiêm nghiêm

ấy không màu mè mỹ tự nhưng sâu sắc . Di cảo

là thơ tổng kết đời và cách nhìn vào đời , bám vào đời của chính ông . Trong

những bản tổng kết của mình , Chế Lan Viên viết vớ i môt thái đô ̣trung thưc

hiếm thấy . Nhà thơ như nhìn thẳng vào sự thật đời mình , thơ mình mà suy

nghĩ, trăn trở , tự vấn. Chế Lan Viên tổng kết về cái Tôi đích thưc

“Anh là thá p Bay – on bốn măṭ Giấu đi ba, còn lại đấy là anh

Chỉ mặt đó mà nghìn trò cười khóc Làm đau ba mặt kia trong cõi ẩn hình”

của mình:

( Tháp Bay – on bốn măṭ)

Ta thấy những khuôn măṭ trong tháp Bay – on biểu hiên

tâm traṇ g đa

dạng, phứ c tap

của Chế Lan Viên . Chế Lan Viên luôn phát hiên

sự vâṭ ở bề

sâu, bề trái của nó , làm hiện rõ lên những quan hệ , những thuôc tính còn ẩn

giấu để nhân

rõ bản chất đối tươn

g. Có người cho rằng Chế Lan Viên là người

hai măṭ trong thơ, rằng trước đây, ông đã có cơ hôi

giấu đi, che đi bô ̣măṭ thât

của mình. Xét về ý nghĩa triết học , mỗi con người là môt vũ tru ̣đầy bí ẩn với

khuôn măṭ khác nhau đươc giấu bên trong . Con người bên trong ấy đã đươc

phâṭ giáo diên

đaṭ sinh đôn

g bằng bứ c tươn

g nghìn tay nghìn mắt và có thể

hiểu là có nghìn khuôn măṭ . Chế Lan Viên bảo mình có bốn khuôn măṭ , trong

suốt ba chuc

năm qua , ông chỉ xuất hiên

công khai với môt

măṭ của mình .

Giữa hai con người : Con người cá nhân và con người xã hội , ông chon

con

người xã hôi

́i trách nhiêm

công dân cao cả ; giữa hai măṭ siêu hình và hiên

thưc

ông chon

khuôn măṭ thứ hai; giữa thơ hướng ngoaị và thơ hướng nôi

ông

chọn mặt thứ nhất ; giữa đau khổ và niềm vui ông chon niêm̀ vui , giữa bè cao


và bè trầm, ông chon đã chỉ sống với môṭ

bè cao để hát bài ca Cách maṇ g ... Nhưng Chế Lan Viên tháp Bay – on bốn măṭ là quá khứ , còn “giấu đi ba còn

lại đấy là anh” là hiện tại của đời ông mấy mươi năm trường.

Trong các tâp

“Di cảo thơ”, Chế Lan Viên có nhiều bài riêng tâp

trung

về các vấn đề của thơ. Đó là những bản tổng kết mà đươc nhà thơ trở đi trở lai

nhiều lần, với những cách nói khác nhau. Chế Lan Viên nhấn maṇ h phần cuôc̣ đời, xã hội, nhân loaị của thơ:

“Không có con kỳ ̀ a, Đông Ki Sốt không thà nh ky ̣sĩ Chả lẽ vác thanh gươm cứ u đờ i mà lết bò quanh năm Ôi, làm gì có hiệp sĩ, có nhà thơ thuần túy

Phải cưỡi lừ a! Phải được chở bằng trăm điều thế tục lăng nhăng”

( Lừ a) Chế Lan Viên đi vào chiều sâu trong tâm hồn như chiều thứ tư của

không gian thơ. Quá trình lộn trái sự vật , lôn

trái tâm hồn và tư tưởng , có khi

lôn

trái cả sự lôn

trái , phản biện cả sự phản biện không chỉ là phẩm chất của

nhà tư tưởng, mà còn là chính nhà thơ:

“Bắt chướ c đà o lôṇ Vỏ tâm hồn lộn trái


hôt

́ t bớ t điều kiêng khem”


( Lôn


trái)

Như vây

, phần lớn những bài t rong “Di cảo thơ” của Chế Lan Viên là

những bài thơ ông viết cho riêng mình . Do đó , khi còn sống , Chế Lan Viên

thân

tron

g không công bố vì nhiều lý do . Tuy nhiên, đã làm thơ, tứ c là có nhu

cầu bôc

lô ̣tư tưởng và tình cảm cho n gười khác. Xét đến cùng, tiếng thơ của

ông cất lên tư tưởng chỉ cho riêng mình, nhưng thưc chất cũng là những thông

điêp

của nhà thơ gử i đến đôc

giả . Tiếng thơ trong “Di cảo thơ” của ông là

những tiếng lòng chân thành và tru ng thưc

đến mứ c muốn “ lôn

trá i tâm hồn


mình” ra cùng ban

đoc

. Đây là môt

quá trình khám phá nhân

thứ c laị mình .

Đó cũng là môt

hành trình đầy thử thách của môt

thi si ̃́n có bản lin

h dám

sống tân

cùng với cá tính của mình.

Có thể nói, đoc

những trang “Di cảo”, đăc

biêṭ là những sáng tác ở giai

đoan

cuối đời , chúng ta thêm hiểu và yêu quý Chế Lan Viên hơn . Chúng ta

thêm khâm phuc

̉i môt

con người luôn suy tư , trăn trở về những vấn đ ề gần

gũi với mỗi kiếp người.

1.3.2. Chính luận như yếu tố cốt lõi tạo nên phong cách Chế Lan

Viên


Hồ Chí Minh từ ng viết trong bài thơ “Cảm tưởng đọc thiên gia thi”:

“Thơ xưa thườ ng chuôn

g thiên nhiên đep̣ .

Mây gió trăng hoa tuyết nú i sông. Nay ở trong thơ nên có thé p.

Nhà thơ cũng phải biết xung phong”

Trong kháng chiến thì thơ có môt

vai trò rất quan tron

g “Thơ là vũ khí

đấu tranh giai cấp kỳ diêu

” . Chế Lan Viên đã luôn tâm niêm

điều ấy và đa

vân dụng triệt để vào sáng tạo nghệ thuật của mình . Chính vì thế mà tro ng

những bài thơ chính luân , Chế Lan Viên đã th ể hiện được sức chiến đấu , tính

nhạy bén kịp thời và chiều sâu của tư duy nghệ thuật . Ở thể thơ chính l uân

này Chế Lan V iên đã dồn hết tâm huyết thể hiên

đươc

những tìm tòi táo bao

và hình thành môt

phong cách thơ đôc

đáo , đăc

sắc viết nên những bài thơ co

giá trị xứng đáng với tầm vóc dân tôc

và thời đaị.

Chúng ta bi ết rằng, quá trình phát triển văn học ở hầu hết các dân tộc đều bắt đầu bằng thơ ca . Và trước khi có văn xuôi và chữ viết , thơ ca đã xuất

hiên

khá lâu. Thơ ca đã theo suốt hành trình phát triển của lic̣ h sử loài người .

Thơ ca đã phuc vu ̣con người từ bên đống lử a trong rừ ng sâu , đến ngày nay

thơ chắp thêm cánh cho con người , bay cao, bay xa lên chiếm các vì sao . Từ


chỗ thơ chỉ như môt

tín hiêu

nhỏ bé trong cuộc sống thì ngày nay thơ đã co

môt

tầm cỡ bao trùm lên toà n nhân loaị . Nếu trước đây thơ chỉ đắm chìm

trong cảm xúc , trong rung đông thì ngày nay thơ đã triết lý, đã tư duy, đã suy

tưởng. Thơ từ chỗ là thơ trữ tình nguyên chất với âm hưởng chủ đao là những

tâm sự, giãi bày cảm xúc , thì ngày nay theo yêu cầu của thời đại mới thơ đã

có thêm tiế ng nói chính luânngười hơn.

đanh thép , giàu tính chiến đấu và sôi động lòng

Song hành cùn g với lic̣ h sử và thời đai , đòi hỏi thơ c a phải đáp ứ ng

những yêu cầu mới trong cuôc chiêń đấu quyế t liêṭ với kẻ thù hung baọ , giành

đôc

lâp

tự do. Trước mắt dân tôc

ta hàng loaṭ vấn đề đăṭ ra như : sứ c maṇ h của

chúng ta là ở đâu ? Ý nghĩa cuộc chiến đấu giải phóng mà ta tiến hành là gì ? Làm thế nào để chiến thắng kẻ thì ? bản chất của kẻ thù? đâu là chân lý của

thời đaị ? Tất cả những câu hỏi lớn đòi hỏi thơ phải tham gia và trưc

tiếp tra

̀i. Lúc này thơ không bằng lòn g với viêc nói tiêń g nói của trái tim nữa . Thơ

phải trực tiếp góp phần nhận thức và khám phá những vấn đề đó bằng tư duy

nghê ̣thuâṭ của thơ và truyền đến cho người đoc thông qua những hình tương

và ngôn ngữ thơ. Nhiều bài thơ chính luận xuất sắc đã ra đời trong hoàn cảnh ấy.

Thơ chính luân

cũng như các daṇ g thứ c biểu hiên

khác của thơ ca nói

chung đều phải lấy cảm xúc làm gốc của hồn thơ .Cảm xúc là đặc trưng cơ

bản để tạo nên hình t ượng thơ. Tuy nhiên cảm xúc trong thơ chính luân khác

́i thơ trữ tình khá nhiều . Nhà thơ tư duy luân

lý để diên

tả những nôi

dung

chính trị , xã hội , thờ i sư,

những nôi

dung triết hoc̣ , lịch sử, đao

đứ c.

Cảm xúc trong thơ chính luân bao giờ cũng được thể hiện bằng những

suy nghi ̃ có tính khái quát , nhất là khi phản ánh tầm vóc dân tộc và thời đại .

Những trường hơp này , hình tượng thơ chủ yếu được cấu tạo bằng một hệ

thống suy tưởng g iàu chất trí tuệ . Ở đây trí tuệ tiếp sức cho cảm xúc và tư

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 19/02/2024