Thể loại văn tế trong văn học trung đại Việt Nam - 40


Nhớ ôi ba tướng:

Nước Hoa Hạ đáng bậc kỳ tài; Chốn quân doanh xứng tầm trác việt.

Ngăn Lĩnh Ngoại giáo gươm tua tủa, sẵn chờ mong Ban Tử lập công danh; Ráp quanh thành hoả pháo ì đùng, bỗng tan biến Phục Ba nhiều kế tuyệt.

Mãi hoài tiếng khánh bi ai; Sâu cảm Thái Sơn tử tiết; Hồn phách trung về tít còi trời xa; Thân xác nghĩa vùi chôn nơi cách biệt.

Đất ấy tiếng thơm muôn thuở, đều khen công trạng trường tồn; Đường xưa lễ bạc một đàn, ngỏ tỏ tâm thành cảm kích.


BÀI 18. 阮述祭長(9; 6b)

嗚呼!

天道有陰有陽,人生有內有外。義由禮起,哀以情生。此述今日之所哭于姨也。述晚生不得見外祖考妣,得見者惟母與舅與姨。舅老無男,姨竝無出。述母又單得。述幼以迨長姨與周旋。母亡未詳,李姨既繼沒。母服初終,而姨又溘然然長逝矣。嗚呼!我姨之死,運耶? 命耶? 述癡不之覺。祗今見舅不見母。既不見母,復不見姨。人非木石,安得無情!哭雖不轉,而可已乎哉?

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 335 trang tài liệu này.

鳳城之花容暗淡,蓮潭之月色低迷。觸景傷懷,撫今思昔。禮而義重,服短而情長。一奠墓前,尚其靈鋻。

Nguyễn Thuật tế trưởng di văn

Ô hô!

Thiên đạo hữu âm hữu dương, nhân sinh hữu nội hữu ngoại.

Nghĩa do lễ khởi, ai dĩ tình sinh. Thử Thuật kim nhật chi sở khốc vu di dã.

Thuật vãn sinh bất đắc kiến ngoại tổ khảo tỉ, đắc kiến giả duy mẫu dữ cữu dữ di. Cữu lão vô nam, di tịnh vô xuất. Thuật mẫu hựu đơn đắc. Thuật ấu dĩ đãi trưởng di dữ chu toàn. Mẫu vong vị tường, Lý di ký kế một. Mẫu phục sơ chung, nhi di hựu khạp nhiên nhiên trường thệ hĩ. Ô hô! Ngã di chi tử, vận da? mệnh da? Thuật si bất chi giác. Chi kim kiến cữu bất kiến mẫu. Ký bất kiến mẫu, phục bất kiến di. Nhân phi mộc thạch, an đắc vô tình! Khốc chi bất chuyển, nhi khả dĩ hồ tai!

Phụng Thành chi hoa dung ám đạm, liên đàm chi nguyệt sắc đê mê. Xúc cảnh thương hoài, phủ kim tư tích.

Lễ sơ nhi nghĩa trọng, phục đoản nhi tình trường. Nhất điện mộ tiền, thượng kỳ linh giám.

Dịch nghĩa

Văn Nguyễn Thuật tế dì cả

Ôi thôi!

Thiên đạo có âm có dương, nhân sinh có nội có ngoại. Nghĩa sinh từ lễ, bi phát do tình.

Nên nay Thuật khóc thương cho dì.


Thuật sinh muộn, không được nhìn thấy ông bà ngoại, chỉ được thấy mẹ và cậu với dì mà thôi. Cậu lớn tuổi không có con trai, dì thì chẳng lập gia đình. Mẹ lại chỉ có một trai là Thuật. Từ nhỏ đến lớn Thuật luôn được dì lo lắng chăm sóc chu toàn. Mẹ mất chưa lâu, dì đà nối gót. Áo tang mẹ vừa mặc xong, mà nay dì vội ra đi mãi mãi.

Ôi thôi! Cái chết của dì do thời vận ư? do số mệnh ư? Thuật thật ngu mê không thể biết. Đến nay chỉ trông thấy cậu, không nhìn thấy mẹ. Đã không nhìn thấy mẹ, lại chẳng trông thấy dì. Người phải đâu là sỏi đá, sao có thể vô tình! Biết rằng khóc than cũng vậy, nhưng dòng lệ vẫn không khỏi tuôn dài.

Vườn Phụng Thành sắc hoa ảm đạm, nước ao sen bóng nguyệt mịt mờ. Cảnh tan tác lòng càng tan nát, nay sầu thương xưa nghĩ càng thương.

Lễ đơn sơ nhưng nghĩa nặng ngàn cân; Áo thô ngắn nhưng tình dài muôn thuở. Một án hương trước mộ, có linh xin chứng giám.


BÀI 19. 阮述祭母文 (9; 7a)

嗚呼!

天之道固有陰陽消長,人之情莫慘於母子別離。母之此去也最慘,此述所以有泣血之悲。母之生也:資兼貞淑,德備孝慈。令族稔閒閫訓,考堂早相閨儀。勤儉以起家,朝霜筐錡;溫和而教子,春日庭圍。述所以有今日之堂構者,惟先考之締,亦母之德所貽。每想芳萱竝茂,寶霧長輝。述雖不能斗升逮養,亦願效晨昏之菽水,舞庭下之班衣。胡然甲紀六旬

,春方在旦;南柯一夢,病不及醫。哀哀我母,此去其何之? 先君既往,孤子何在癡?長婦亦拙,童孫何知?說起家情不盡,天也胡而。嗚呼!

珥河東流,市廛鑿鑿;蓮潭春水,邑里依依。母之去也,不能輓;母之復也,不能期。行封馬鬣,聊奠蟻巵。母恩罔極,子道誠虧。嗚呼!痛哉!

Nguyễn Thuật tế mẫu văn

Ô hô!

Thiên chi đạo cố hữu âm dương tiêu trưởng, nhân chi tình mạc thảm ư mẫu tử biệt li. Mẫu chi thử khứ dã tối thảm, thử Thuật sở dĩ hữu khấp huyết chi bi.

Mẫu chi sinh dã:

Tư kiêm trinh thục, đức bị hiếu từ.

Lệnh tộc nhẫm nhàn khổn huấn, khảo đường(1) tảo tướng khuê nghi.

Cần kiệm dĩ khởi gia, triêu sương khuông kĩ; Ôn hoà nhi giáo tử, xuân nhật đình vi(2).

Thuật sở dĩ hữu kim nhật chi đường cấu giả(1), duy tiên khảo chi đế, diệc mẫu chi đức sở di. Mỗi tưởng phương huyên(2) tịnh mậu, bảo vụ(3) trường huy. Thuật tuy bất năng đẩu thăng đãi dưỡng, diệc nguyện hiệu thần hôn chi thục thuỷ(4), vũ đình hạ chi ban y(5).


1 Khảo đường: Như khảo thất (khánh thành nhà mới), vua xây dựng cung thất vào ở rồi sinh con gái con trai. Ý nói gia đình dưới trên vui hòa, tốt đẹp.

2 Đình vi: Xưa chỉ chỗ cha mẹ ở, cũng dùng chỉ cha mẹ.


Hồ nhiên giáp kỷ lục tuần, xuân phương tại đán;

Nam kha nhất mộng(6), bệnh bất cập y. Ai ai ngã mẫu, thử khứ hà kỳ chi? Tiên quân ký vãng, cô tử hà tại si? Trưởng phụ diệc chuyết, đồng tôn hà tri? Khởi gia tình bất tận, thiên dã hồ nhi.

Ô hô!

Nhị Hà đông lưu, thị triền tạc tạc; Liên đàm xuân thuỷ, ấp lý y y. Mẫu chi khứ dã bất năng vãn; Mẫu chi phục dã bất khả kỳ.

Hành phong mã liệp, liêu điện nghĩ chi. Mẫu ân vòng cực(7), tử đạo thành khuy. Ô hô! Thống tai!

Dịch nghĩa

Văn Nguyễn Thuật tế mẹ

Ôi thôi!

Đạo trời vốn có âm dương được mất, lòng người thảm nhất lúc mẫu tử biệt li. Mẹ ra đi chuyến này đau đớn quá, nên Thuật đầm đìa huyết lệ sầu bi.

Cuộc đời mẹ: Tính tình trung trinh hiền thục; Đức độ gồm cả hiếu từ.

Nhà vọng tộc mẹ dày công giáo huấn; Chốn gia đường mẹ giữ rò nghiêm uy.

Cần kiệm dựng nếp nhà, sớm khuya đôi quang gánh; Ôn hòa răn con cháu, lòng mẹ tựa nắng mai.

Nay Thuật có được công danh, nhờ công cha giáo hóa, thật cũng nhờ đức mẹ hộ trì. Vẫn mong: Huyên thơm thường tốt, Bảo vụ luôn ngời.

Thuật tuy không thể báo hiếu tơ hào, cũng nguyện:

Noi gương thừa hoan thúc thủy, Chơi đùa trúc mã ban y. Cớ sao:

Tuổi tác sáu mươi, xuân nồng vụt tắt;


1 Đường cấu: Thượng thư-“Đại cáo” có câu “Nhược khảo tác thất, ký để pháp, quyết tử nãi phất khẳng đường, thẩn khẳng cấu.” nghĩa là “Ví như cha làm nhà đã đúng phép, đời con lại chẳng chịu xây thềm, còn nói gì dựng được nhà?” Sau dùng chỉ con cháu kế tục được sự nghiệp tổ tiên để lại.

2 Phương huyên: Cỏ huyên thơm. Kinh Thi có câu “Yên đắc huyên thảo, ngôn thụ chi bối”, nghĩa là “Sao được cỏ

huyên, trồng ở chái nhà phía bắc.” Người phụ nữ ở nhà phía bắc, cỏ huyên làm người ta quên được lo buồn, nên gọi mẹ là nhà huyên.

3 Bảo vụ: Sao Vụ nữ, chỉ người phụ nữ.

4 Thúc thủy: Kinh Lễ có câu “Xuyết thúc ẩm thủy tận kỳ hoan”, nghĩa là “Ăn đậu uống nước hết tình vui”. Sau nói thờ kính cha mẹ là thúc thủy thừa hoan.

5 Ban y: Lấy từ trúc mã ban y (ngựa trúc áo hoa). Theo tích xưa, những đứa bé lấy cành tre làm ngựa, mặc áo hoa

cùng chơi những trò chơi của trẻ con. Lão Lai Tử nước Sở thời Xuân Thu là người con chí hiếu, bảy mươi tuổi vẫn thường mặc áo hoa ngũ sắc bắt chước trò trẻ con làm vui lòng cha mẹ.

6 Nam Kha nhất mộng: Giấc mộng làm Thái thú quận Nam Kha. Ý nói cuộc đời hư ảo, sống chết vô thường.

7 Vòng cực: Kinh Thi-“Tiểu nhã”-“Lục nga” có câu “Dục báo chi đức, hạo thiên vòng cực”, nghĩa là “Muốn báo ân đức, như trời rộng lớn không cùng”.


Nam kha một giấc, bệnh chẳng gặp thầy. Thương thay thân mẫu, chuyến này mãi đi. Phụ thân mất sớm, con trẻ còn ngu si.

Mẹ nay cũng mất, con trẻ đâu biết gì.

Nhắc đến nỗi nhà khôn ngăn dứt. Trời hỡi! Cớ sao? Ôi thôi!

Nhị Hà nước chảy về đông, phố phường tiêu tác; Hồ xuân sen đầy mặt nước, thôn ấp sầu tư.

Mẹ đã giã từ khôn níu kéo; Mẹ ngày gặp lại chẳng hẹn kỳ.

Đường đưa tiễn gió rung bờm ngựa; Lễ đơn sơ vài chén thảo ngay. Ơn mẹ như trời đất; Hiếu con tợ cỏ cây.

Ôi thôi! Đau đớn thay!


Bài 20. 省官輓故督堂黄相公帳文 (4; 138a)

嗚呼!忠義之節,根於人心;誰無是知,而見之者亦鮮矣。是以忠臣烈士,歷代重之,而况於同辰僚誼者能不爲之悲愴而慨惜也耶!敬惟:故河寧制臺黄光逺相公(公廣南副榜,以吏部侍郎領督)。正直之性,出於自然;剛大之氣,得之善養。有心量有腑畧,與人則誠寔無欺,牧民則廉平不擾。雖前紛蝟務,而應若水流;雖外弄胡行,而靜如山立。寬以接下,而風裁獨自持也;信以睦鄰,而威望常自重也。朝廷方委以鎖鑰;轄民相倚爲保障

。莅斯土也,三年于茲,不謂逺來託故(以辨劉爲詞),自逞兵威,而邊釁開矣。於是客主相搏,山河震眩;聲析山河,勢崩雷電。當此,擁孤城,握孤軍,前無應,後無援。公豈不知萬無可爲,而猶踴躍登城,抗戰移時,勢窮力竭,遂死之。同事從之,或登高,或臨深,盖欲一辨而不能也(事後,聞撫院與提督領兵諸公,或入井,或上樹,皆不能辨)

。夫辨得一死,乃是難事。人皆謂公之能死爲忠,而孰知公之能忠,又本乎孝。觀公近日謝表有句云:"不忠於君非孝也。"(月前公謝表,由謝攽賜公老慈銀絹參桂,有末句云

:"不忠於君非孝也。豈敢貽臣母之羞!有利於國則爲之,庶少答天家之貺。")

則夫公之孝以移於忠者,有素矣。所以邁事而激發者,臨難忘身,見危授命;死生驚懼,不入於中;進退存亡,不失其正。孔曰"成仁",孟子曰"取義",公其庶乎,而人之所以不可及者也。前此,壯烈伯阮相公,遇難絕食而終,凛凛英風,猶使人於此欽仰(癸酉河城失守,阮相公不食一月而終。後立忠烈庙於城內祀之)。今公克盡守土之責,以死自誓,與城存亡。其氣節又如此,是雖前後勢殊,而其爲忠義之概一也。相公之忠精義烈,赫赫然於濃山珥水間。其將與忠烈庙而同垂耿光歟!所慟者志不得大行,功不得盡施。而獨以忠義之名重於世而已。此忝列之所以悲愴而慨惜之者,不能自已也。

Tỉnh quan vãn cố Đốc đường Hoàng tướng công trướng văn

Ô hô! Trung nghĩa chi tiết, căn ư nhân tâm; Thuỳ vô thị tri, nhi kiến chi giả diệc tiên hĩ. Thị dĩ trung thần liệt sĩ, lịch đại trọng chi, nhi huống ư đồng thời liêu nghị giả, năng bất vị chi bi sảng nhi khái tích dã da!


Kính duy: Cố Hà Ninh(1) Chế đài Hoàng Quang Viễn tướng công (Công Quảng Nam Phó bảng, dĩ Lại bộ Thị lang lãnh(2) Đốc). Chính trực chi tính, xuất ư tự nhiên; Cương đại chi khí, đắc chi thiện dưỡng. Hữu tâm lượng, hữu phủ lược, dữ nhân tắc thành thực vô khi, mục dân tắc liêm bình bất nhiễu. Tuy tiền phân vị vụ, nhi ứng nhược thuỷ lưu; Tuy ngoại lộng hồ hành, nhi tĩnh như sơn lập. Khoan dĩ tiếp hạ, nhi phong tài độc tự trì dã; Tín dĩ mục lân, nhi uy vọng thường tự trọng dã.

Triều đình phương uỷ dĩ toả thược; Hạt dân tương ỷ vi bảo chướng. Lị tư thổ dã, tam niên vu tư, bất vị viễn lai thác cố (dĩ biện lưu vi từ ), tự sính binh uy, nhi biên hấn khai hĩ. Ư thị khách chủ tương bác, sơn hà chấn huyễn; Thanh tích sơn hà, thế băng lôi điện.

Đương thử, ủng cô thành, ác cô quân, tiền vô ứng, hậu vô viện. Công khởi bất tri vạn vô khả vi, nhi do dũng dược đăng thành. Kháng chiến di thời, thế cùng lực kiệt, toại tử chi. Đồng sự tòng chi, hoặc đăng cao, hoặc lâm thâm, cái dục nhất biện nhi bất năng dã (Sự hậu, văn Phủ viện dữ Đề đốc Lãnh binh chư công, hoặc nhập tỉnh, hoặc thướng thụ, giai bất năng biện). Phù biện đắc nhất tử, nãi thị nan sự.

Nhân giai vị công chi năng tử vi trung, nhi thục tri công chi năng trung hựu bản hồ hiếu. Quan công cận nhật tạ biểu hữu cú vân: “Bất trung ư quân, phi hiếu dã.” (Nguyệt tiền công tạ biểu, do tạ ban tứ công Lão từ ngân quyên sâm quế, hữu mạt cú vân: “Bất trung ư quân, phi hiếu dã. Khởi cảm di thần mẫu chi tu! Hữu lợi ư quốc tắc vi chi, thứ thiểu đáp Thiên gia chi huống.”) Tắc phù, công chi hiếu dĩ di ư trung giả, hữu tố hĩ. Sở dĩ mại sự nhi kích phát giả, lâm nạn vong thân, kiến nguy thụ mệnh; Tử sinh kinh cụ, bất nhập ư trung; Tiến thoái tồn vong, bất thất kì chính. Khổng viết “thành nhân”, Mạnh viết “Thủ nghĩa”(3), công kỳ thứ hồ, nhi nhân chi sở dĩ bất khả cập giả dã.

Tiền thử, tráng liệt bá Nguyễn Tướng công(4), ngộ nạn tuyệt thực nhi chung, lẫm lẫm anh phong, do sử nhân ư thử khâm ngưỡng (Quý Dậu Hà thành thất thủ, Nguyễn Tướng công bất thực nhất nguyệt nhi chung. Hậu lập Trung Liệt miếu ư thành nội tự chi.) Kim công khắc tận thủ thổ chi trách, dĩ tử tự thệ, dữ thành tồn vong. Kỳ khí tiết hựu như thử, thị tuy tiền hậu thế thù, nhi kỳ vi trung nghĩa chi khái nhất dã. Tướng công chi trung tinh nghĩa liệt, hách hách nhiên ư Nùng Sơn Nhị Thuỷ gian. Kỳ tương dữ Trung Liệt miếu nhi đồng thuỳ cảnh quang dư! Sở đỗng giả, chí bất đắc đại hành, công bất đắc tận thi. Nhi độc dĩ trung nghĩa chi danh trọng ư thế nhi dĩ. Thử thiểm liệt chi sở dĩ bi sảng nhi khái tích chi giả, bất năng tự dĩ dã.

Dịch nghĩa

Văn viếng Cố Đốc đường Hoàng Diệu (của 1 vị quan tỉnh)

Than ôi! Tinh thần trung nghĩa, gốc ở lòng người. Ai chưa biết được, nhìn đây ắt rò. Cho nên, bậc trung thần nghĩa sĩ kẻ trước người sau đều kính trọng, huống gì hàng đồng bối đồng liêu lại không ngậm ngùi đau xót!


1 Hà Ninh: Hà Nội và Ninh Bình.

2 Lãnh: Một trong những cách phân biệt trách nhiệm của quan lại. Thời Nguyễn nếu quan cao kiêm thêm chức thấp thì gọi là Lãnh.

3 Thành nhân: Luận ngữ “Vệ Linh Công”: “Chí sĩ nhân nhân vô cầu sanh dĩ hại nhân, hữu sát thân dĩ thành nhân.”

(Người có chí và người có nhân không vì muốn sống mà hại đức nhân, mà có lúc lấy cái chết để giữ tròn đức nhân); Thủ nghĩa: Mạnh Tử “Cáo Tử”: “Sinh diệc ngã sở dục dã, nghĩa diệc ngã sở dục dã, nhị giả bất khả đắc kiêm, xả sinh nhi thủ nghĩa giả dã.” (Sự sống ta cũng ham, việc nghĩa ta cũng muốn, nếu không được cả hai thì bỏ thân mà giữ điều nghĩa vậy.)

4 Nguyễn Tướng công: Tức Nguyễn Tri Phương.


Kính nhớ ông: Vốn là Hà Ninh Chế đài Hoàng Quang Viễn (ông là người Quảng Nam, đỗ Phó bảng, giữ chức Lại bộ Thị lang lãnh Đốc).

Tính tình cương trực, chất phác tự nhiên; Chí khí cứng cỏi, hàm dưỡng hơn người. Tâm lượng tròn đầy; Tài thông thao lược. Đối đãi với người chân thành mực thước; Xử trị với dân liêm khiết vô tư. Tuy muôn vàn việc nước việc dân, ứng biến nhẹ nhàng như nước chảy; Tuy bên ngoài tất bật lo toan, tâm chí như núi non tĩnh lặng. Tiếp hạ bao dung, nhưng quyết đoán kiên trì; Hòa mục láng giếng, vẫn nghiêm nghì cẩn trọng.

Triều đình giao nhiệm vụ canh giữ biên cương, cai quản và bảo vệ nhân dân. Nhậm chức được ba năm, bất ngờ giặc xa mượn cớ(1) (chỉ là lời ngụy biện cho hành vi xâm lược, tàn sát của chúng), phô diễn binh uy, nên biên cương nổ ra cuộc chiến. Vì thế, ta địch quần nhau, đất trời rung chuyển, tiếng dội núi sông, thế rền sấm sét.

Lúc bấy giờ, ông quyết giữ cô thành với đội quân đơn độc, trước không người ứng cứu, sau chẳng kẻ viện binh. Há ông không biết khó bề chống đỡ, nhưng vẫn hăng hái lên thành đánh nhau với địch. Cho đến khi thế cùng lực kiệt, anh dũng tuẫn tiết trước mặt quân thù. Những đồng sự theo cùng, có người chạy lên núi, có người lặn xuống sông, nhưng đều không thoát được (sau đó, nghe các ông Phủ viện, Đề đốc và Lãnh binh có người nấp dưới giếng, có người lẻn vào rừng nhưng cũng không sao trốn thoát). Ôi, muốn tìm con đường sống thật khó lắm thay.

Mọi người đều bảo ông tuẫn tiết là giữ vẹn lòng trung. Nhưng mấy ai hiểu được rằng, lòng trung của ông bắt nguồn từ chữ hiếu. Xem tờ tạ biểu gần đây của ông, thấy có câu: “Không trung với vua là không tròn chữ hiếu.” (Tháng trước, ông viết tờ tạ biểu sau khi mẹ ông được vua ban tứ một số ngân lụa và ba cây quế, câu cuối có nói rằng: “Không trung với vua là không tròn chữ hiếu, dám đâu để mẹ phải mang lòng hổ thẹn. Việc gì hữu ích cho quốc gia thì chẳng từ nan. Chỉ là một chút đáp đền những gì nhà vua ban tứ.”) Thế đó, chữ hiếu chuyển thành lòng trung, nó đã trở thành bản chất của ông. Cho nên, bất cứ việc gì cũng đều hăng say năng nổ. Khó khăn chẳng nề, lâm nguy xả mệnh. Sống chết nhát hèn, chưa từng nghĩ đến; Tồn vong tiến thoái, quyết chẳng chùn chân. Khổng Tử gọi là “Thành nhân”, Mạnh Tử gọi là “Thủ nghĩa”, ông đã gần đạt đến như thế, người đời khó ai sánh kịp.

Trước kia, Nguyễn bá Tướng công vô cùng oanh liệt, ngộ nạn nhịn ăn tử tiết. Lẫm lẫm uy phong, ai nấy đều khâm phục (năm Quý dậu, Hà Thành thất thủ, Nguyễn Tướng công tuyệt thực một tháng mà chết. Sau vua sai lập Trung Liệt miếu thờ ngài). Giờ đây, ông một lòng chống giặc giữ đất, thề tử thủ với quân thù, tồn vong cùng thành lũy. Khí tiết ấy đáng sánh với Nguyễn Tướng công. Tuy tình thế trước sau có khác, nhưng trung nghĩa một dạ tương đồng. Tinh thần trung nghĩa oanh liệt của Tướng công, mãi sáng ngời nơi núi Nùng sông Nhị, sẽ lưu ánh quang minh cùng Trung Liệt miếu.

Tiếc là tiếc chí cả chưa thực thi, công trình chưa hoàn tất. Riêng tinh thần trung liệt còn mãi với núi sông. Nay, lòng đầy hổ thẹn, tiếc nhớ khôn nguôi.


1 Giặc mượn cớ: Khi Đại tá Pháp là Henri Rivière đem quân ra Bắc, lấy cớ bảo vệ sinh mạng và tài sản cho những người Pháp đi du lịch. 5 giờ sáng ngày 25/4/1882 (mồng 8/3 năm Nhâm ngọ), H. Rivière gửi tối hậu thư đến Hoàng Diệu buộc phải triệt hết binh lính ra khỏi thành Hà Nội và hẹn 8 giờ sáng hôm ấy các quan Tổng đốc, Tuần vũ, Bố chánh, Án sát, Đề đốc và Chánh Phó lãnh binh phải đến nộp mình tại dinh Đại tá.


BÀI 21. Cháu tế ông ngoại văn (Nôm) (15; 42a) Hỡi ôi!

Trời đất đã sinh lại hóa, nẻo hóa sinh sao khéo vội vàng;

Cháu ông đang hợp mà tan, đường tan hợp ngẫm không chừng hạn. Nhớ ông ngoại xưa:

Tính đất thông minh; Lòng trời thuần phác.

Nghề vui đủ cầm kỳ xạ lạp, thú phong lưu đà thiếu kẻ dám bì; Nghiệp nhà hay lý bốc y nho, trường văn vật lại ít người xứng đáng. Lời ăn nói khiêm cung cẩn thận, trăm bề đẹp đẽ không sai;

Việc khởi cư chính trực đoan nghiêm, một mảy lời không chếch mích. Thương cháu con nội ngoại cũng tương tề; Với dâu rể xa gần không hậu bạc. Cháu từ thuở bé thơ cung phụng, ông từng răn câu trung hiếu lòng ghi;

Cháu từ khi khôn lớn dang tay, ông hằng dạy chữ thuận hòa dạ tạc.

Ông dường ấy phong lưu dường ấy, tưởng trăm năm còn vui hưởng còi đài xuân; Căn về đâu số hệ về đâu, mới một phút đã về miền tiên ngạn.

Ôi!

Ngọn hẹ sương tàn; Cành dâu nguyệt lạc.

Bóng bạch câu phút đã vãng qua; Tranh thương cẩu bỗng đâu hóa khác. Nơi điểm hạm(1) mơ màng hãy đó, ông sao đành lánh chốn ngao du;

Tiệc phân cam(2) mường tượng nay đâu, ông sao nỡ tìm phương khoái lạc. Đất hỡi trời, trời hỡi đất, đành nào xui cho ông cháu biệt li;

Thần hay quỷ, quỷ hay thần, nỡ nào khiến cha con phân tán. Nhà cửa đó, sự nghiệp đó, ông sao đành về còi tiên phương; Con cháu đây, dâu rể đây, ông bao nỡ đành lòng cưỡi hạc. Nay còn thấy một tòa linh cữu, hãy lon xon kẻ điếu người đưa;

Mai lấp rồi ba thước mộ phần, thì vắng vẻ trăm năm hình dáng. Tình con cháu biết sao trọn đạo, thô sơ một điện xin dâng; Nghĩa ông bà xin chứng tấm lòng thành, mặn lạt ba tuần lễ bạc. Hỡi ôi! Thương thay! Có linh xin chứng!


1 Điểm hạm: Gật đầu đáp lễ hoặc đồng ý.

2 Phân cam: Xuất phát từ thành ngữ “Phân cam cộng khổ” (Đồng cam cộng khổ: cùng sướng cùng khổ).



Thành ngữ Phân cam cộng khổ Đồng cam cộng khổ cùng sướng cùng khổ 1


Thành ngữ Phân cam cộng khổ Đồng cam cộng khổ cùng sướng cùng khổ 2

Xem tất cả 335 trang.

Ngày đăng: 22/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí