Thể loại văn tế trong văn học trung đại Việt Nam - 31





Mạnh)/ 1840



B68*

Lê Ngọc Hân (1770-

1799)

Tế Quang Trung đế văn (Văn tế vua Quang Trung)/ 1972

Nôm/ luật phú độc vận

[21; 10] Lê Ngọc Hân là con của vua Lê Hiển Tông, là vợ của Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ (1753-1792) triều Tây Sơn. Quang Trung từ trần sau 7 năm chung sống. Mới ngoài 20 tuổi đã thành người goá bụa, quá đau xót bà đã soạn bài văn

này để tế chồng.

B69*

Nguyễn Thượng Hiền (1868-

1925)

Điếu Tôn Thất Thuyết thượng tướng tế văn (Văn tế Tôn Thất Thuyết)/ đầu XX

Hán/ tứ ngôn trường thiên

[79, T22; 704], [21; 12] Tôn Thất Thuyết (1835-1913) là vị tướng theo phái chủ chiến sau khi Pháp sang xâm lược nước ta. Ông là người phát động phong trào Cần vương chống Pháp. Năm 1886, ông sang Trung Quốc cầu viện. Việc không thành, ông mất năm 1913 tại Quảng Đông. Con rể ông là Nguyễn Thượng Hiền làm bài văn tế

này nói lên tâm sự và thân thế nhạc phụ.

B70*

Hồ Trọng Hiếu (Tú Mỡ, 1900-

1976)

Văn tế búi tóc

Luật phú độc vận

[21; 190] Ứng Hoè Nguyễn Văn Tố (1889- 1947) là nhà Tây học uyên thâm nhưng nệ cổ, giữ riết cái búi tóc, coi như quốc tuý quốc hồn. Về sau, ông đã tự cắt búi tóc. Tú

Mỡ làm bài này theo kiểu trào phúng.

B71

Nguyễn Hữu Huân (1816-

1875)

Văn tế chó

Nôm/ luật phú độc vận

Thuộc văn tế trào phúng (Nguyễn Khuê, Cao Tự Thanh (2011), 100 câu hỏi đáp về văn học Hán Nôm ở Sài Gòn-Gia Định,

NXB. Văn hoá - Văn nghệ, tr.74, 75)

B72

Nguyễn Huệ (Quang Trung)? (1753-

1792)

Văn tế Sầm Nghi Đống

Hán/ Luật phú độc vận

[53]

B73

Phạm

Khắc Huề

Văn tế anh

Nôm

[59]

B74*

Phan Huy Ích (1750-

1822)

Điện tế văn/ cuối XVIII

Hán/ luật phú độc vận

[79, T9B; 94] Tế “điện” là tế khi chưa chôn. Bài này do Phan Huy Ích làm cho vua Quang Toản cùng các công chúa tế hoàng khảo Quang Trung vào tháng 5 năm

Nhâm Tý (1792).

B75*

Phan Huy Ích

Văn tế Lê Ngọc Hân/

1799

Nôm/ luật phú

độc vận

[21; 44] Lê Ngọc Hân mất khi các con của bà còn nhỏ, Phan Huy Ích làm thay bài văn

tế này để tế bà trong lễ truy điệu.

B76*

Phan Huy Ích

Văn tế các tướng sĩ trận

vong

Nôm/ luật phú

độc vận

[21; 47]

B77

Phan Huy Ích

Văn tế tướng sĩ rằm tháng

bảy

Nôm/ luật phú

độc vận

[152; 510]

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 335 trang tài liệu này.

Thể loại văn tế trong văn học trung đại Việt Nam - 31



B78

Huỳnh Thúc Kháng (1876-

1947)

Văn tế Phan Sào Nam/ 1940

Luật phú độc vận

[79, T21; 386] Huỳnh Thúc Kháng làm bài này trước ngày Phan Bội Châu tạ thế (29/10/1940) và đọc cho cụ Phan nghe trong lễ sinh vãn. Sau đó, cụ Phan đã làm

bài Từ giã bạn bè lần cuối cùng.

T79*

Trần Quý Khoáng (Trùng Quang đế) (?-1414)

Văn tế Nguyễn Biểu/ XV

Nôm/ luật phú độc vận

[21; 19] Trần Quý Khoáng/ Khoách nổi dậy chống quân Minh, cho Nguyễn Biểu (?-1413) gặp tướng Minh là Trương Phụ (1375-1449) thương thuyết. Phụ có ý cướp nước ta nên không cho Nguyễn Biểu về. Nguyễn Biểu mắng Phụ là đồ cướp nước nên bị Phụ lập mưu bắt giết. Trần Trùng Quang (niên hiệu của Trần Quý Khoáng sau khi lên ngôi) thương xót làm bài văn tế này. Đây là một trong những bài văn tế

Nôm cổ nhất còn lại.

B80*

Ngô Trọng Khuê (1744-?)

Tế nghĩa bộc Phạm Đình Tích văn/ XVIII

Hán/ tản văn

[91; 521] Ngô Trọng Khuê đỗ Tiến sĩ năm 1769, làm quan đến Bồi tụng Thị lang. Ông có người nô bộc tên Phạm Đình Tích theo ông từ thuở hàn vi. Năm 1786, Tích tử nạn vì chủ. Ngô Trọng Khuê đã đưa thi hài về quê và làm bài văn tế bày tỏ lòng cảm

thương thống thiết.

B81*

Nguyễn Khuyến (1835-

1909)

Vãn Tuần phủ Lã tiên sinh trướng văn (Văn viếng Lã Xuân Oai)/ cuối XIX

Hán/ cổ phú lưu thuỷ

[79, T19; 661] Lã Xuân Oai (1838-1890)

đỗ Phó bảng năm 1865, làm quan đến chức Án sát. Ông với Nguyễn Khuyến là bạn đồng môn. Trong thời gian nhậm chức ở Cao Bằng - Lạng Sơn, ông tổ chức quân dân đánh Pháp kịch liệt. Sau khi Lạng Sơn thất thủ, ông về Ninh Bình dạy học. Cuộc khởi nghĩa Cần vương do học trò ông khởi xướng không thành, ông cũng bị liên luỵ, bị Pháp bắt đày đi Côn Đảo và mất ở đó.

Học trò cụ Lã nhờ Nguyễn Khuyến viết bài văn tế này.

B83

Nguyễn Khuyến

Văn tế mẹ

Nôm/ luật phú

độc vận

Theo: Vương Lộc (2002), Từ điển từ cổ, NXB. Đà Nẵng-TT. Từ điển học, tr.27

B84*

Nguyễn Kiều (1694-

1771)

Văn tế Đoàn Thị Điểm/ XVIII

Nôm/ luật phú độc vận

[21; 10] Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm mất năm 1748(1). Trong lễ phát tang ở Nghệ An, chồng bà là Nguyễn Kiều đã làm bài văn tế

này.

B85*

Nguyễn Xuân Kiều

Văn tế nha phiến/ nửa

cuối XIX

Nôm/ luật phú

độc vận

[32; 68] Thuộc văn tế trào lộng.

B86*

Phan

Văn tế sống

Nôm/

[152; 517] Một anh học trò ở Hà Tĩnh yêu



1 Theo Nguyễn Q.Thắng, Nguyễn Bá Thế thì Đoàn Thị Điểm mất năm 1746 [120; 229].




Kính? (1715-

1761)

(Văn tế cô Nhiễu)/ XVIII

luật phú độc vận

một cô gái trẻ đẹp, đinh ninh chấp mối tơ mành, ai ngờ sau đó cô gái đi lấy người thuyền chài, già và xấu. Anh học trò thất tình, hôm nhị hỉ đặt bàn thờ giữa chợ mà tế sống cô ấy. Bài văn tế dùng toàn từ ngữ nghề đánh cá. Tương truyền người thanh

niên này là Thám hoa Phan Kính.

B87*

Trần Kính (Trần Duệ Tông, 1372-

1377)

Nguyễn Bích Châu tế văn/ XIV

Hán/ tứ ngôn tao thể

[79, T3B; 357], [22; 20] Nguyễn Bích

Châu (?-1377) là ái phi của Trần Duệ Tông (vua thứ 10 triều Trần). Khi Trần Duệ Tông nam chinh gặp biển động, Nguyễn Bích Châu phải nhảy xuống biển, biển mới

yên, nhà vua làm bài văn này để tế bà.

B88*

Trần Danh Lâm (1705-?)

Trần công tế Phạm công văn (Văn tế Phạm Đình Trọng)/ giữa

XVIII

Hán/ luật phú độc vận

[150; 51] Phạm Đình Trọng (1714-1754) là đại thần triều Lê - Trịnh. Khi ông mất, triều đình sai người làm văn tế ông. Trần Danh Lâm là đại thần triều Lê, cũng làm bài văn này để tế người đồng liêu.

B89

Hoà thượng Bích Liên (1876-

1950)

Văn tế thầy/ đầu XX

Nôm, luật phú độc vận

[32; 126] Hoà thượng Bích Liên thế danh Nguyễn Trọng Khải, pháp danh Chơn Giám, khai tổ kệ phái Bích Liên tại Bình Định. Bài văn này do Hoà thượng viết tế

thầy, văn bản do HT. Nguyên Trạch chùa Long Khánh ở Quy Nhơn cung cấp.

B90

Nguyễn Lưu

Khúc Thuỷ môn sinh Nguyễn Lưu

tế phụ văn

Hán/ luật phú độc vận

[9; 13a] Văn của môn sinh ở Khúc Thuỷ là Nguyễn Lưu tế cha.

B91*

Bùi Hữu Nghĩa (1807-

1872)

Văn tế vợ/ XIX

Nôm/ luật phú độc vận

[21; 61] Bùi Hữu Nghĩa là người chính trực, bị quan trên ghét nên mất chức và bị đi tù. Vợ ông là bà Nguyễn Thị Tồn lên kinh kêu oan với vua Tự Đức. Ông được tha, nhưng bà Tồn về giữa đường thì bệnh

chết. Ông thương xót làm bài văn tế này.

B92*

Bùi Hữu Nghĩa

Khóc con gái (Văn đàn bảo giám ghi là “Văn mẹ tế

con gái”)

Nôm/ luật phú độc vận

[21; 65] Con gái đầu của Bùi Hữu Nghĩa là Bùi Thị Xiêm mất sớm, ông Bùi vô cùng thương xót làm bài văn này tế con gái.

B93*

Ngô Thì Nhậm (1746-

1803)

Bôn tang cáo văn/ 1780

Hán/ tản văn

[38; 519] Năm 1780, Ngô Thì Nhậm đang làm quan ở kinh đô. Đuợc tin cha là Ngô

Thì Sĩ mất, ông xin về trấn đón tang đưa về làng. Ông viết bài này tế về việc chạy tang.

B94

Ngô Thì

Nhậm

Thành phục

cáo văn

Hán/ tản

văn

[38; 521] Văn khấn lễ phát tang cha của

Ngô Thì Nhậm.

B95

Ngô Thì

Nhậm

Hồi tang trục

nhật cáo văn

Hán/ tản

văn

[38; 525] Đây là bài văn tế hàng ngày trên

đường Ngô Thì Nhậm đưa tang cha về quê.



B96

Ngô Thì Nhậm

Hồi quán tế ốc trục nhật

điện văn

Hán/ tản văn

[38; 545] Đây là bài văn tế điện hàng ngày ở nhà tế sau khi Ngô Thì Nhậm đưa linh

cữu cha về tới quê.

B97

Ngô Thì Nhậm

Trung đồ tế ốc điện văn

Hán/ tản văn

[38; 553] Khi đưa tang, những nhà phú quý có đặt nhà trạm trên đường (trạm trung đồ) để dừng linh cữu mà tế điện. Đây là bài văn tế điện ở nhà trạm trên đường đi trong

đám tang cha của Ngô Thì Nhậm.

B98

Ngô Thì Nhậm

Đình cữu đường điện

cáo văn

Hán/ tản văn

[38; 558] Bài văn tế cúng cơm ở nhà để quan tài.

B99

Ngô Thì

Nhậm

Sơ ngu tế văn

Hán/ tản

văn

[38; 561] Bài văn tế cúng cơm ngày sơ ngu

(sau khi an táng 1 ngày)

B100

Ngô Thì

Nhậm

Tái ngu tế văn

Hán/ tản

văn

[38; 563] Bài văn tế cúng cơm ngày tái ngu

(sau khi an táng 2 ngày)

B101

Ngô Thì

Nhậm

Tam ngu tế

văn

Hán/ tản

văn

[38; 564] Bài văn tế cúng cơm ngày tam

ngu (sau khi an táng 3 ngày)

B102

Ngô Thì

Nhậm

Cáo tương

văn

Hán/ tản

văn

[38; 565] Văn tế trình bày việc an táng và

lễ tam ngu đã xong.

B103

Ngô Thì Nhậm

Cáo truyền thần văn

Hán/ tản văn

[38; 571] Nhân lễ chung thất, Ngô Thì Nhậm kính phụng di tượng truyền thần cha

của ông phối hưởng nơi cửa Phật. Đây là bài văn cáo với tượng truyền thần.

B104

Ngô Thì

Nhậm

Bách nhật cáo

văn

Hán/ tản

văn

[38; 568] Văn tế trong lễ trăm ngày sau khi

mất.

B105 B106


B107

Ngô Thì Nhậm

- Cáo Lộc Mã doanh văn

- Nhâm Dần trung hạ tế văn

- Thị niên quý hạ cáo văn

Hán/ tản văn

[38; 575-581] Sau khi lo xong tang cha, Ngô Thì Nhậm đi nhậm chức, không thể kề cận bên ban thờ và chăm sóc phần mộ. Ông làm ba bài văn tế này bái vọng từ xa.

B108

Ngô Thì

Nhậm

Đạm tế văn

Hán/ tản

văn

[38; 586] Đây là văn tế lễ hết 3 năm Ngô

Thì Nhậm để tang cha.

B109

Ngô Thì Nhậm

Cải chế đệ Điện đại luyện phục cáo văn

Hán/ tản văn

[38; 524] Điện là em của Ngô Thì Nhậm. Điện làm con kế thừa của chú, nên Nhậm khấn xin cho chỉ để tang cha đủ 1 năm. Vì

vậy làm bài văn khấn xin đổi áo xổ gấu thành áo vải thô.

B110*

Ngô Thì Nhậm

Tế tiên thứ mẫu Thuận

Nhân quan văn/ 1771

Hán/ tản văn

[37; 714] Thuận Nhân là thuỵ hiệu vợ quan Tứ phẩm. Bà mẹ thứ ở đây là vợ thứ 2 của

Ngô Thì Sĩ, họ Nguyễn, phong tặng Thuận Nhân, hiệu Trang Chính.

B111*

Ngô Thì

Nhậm

Tế thứ mẫu

Hoàng thị văn

Hán/ tản

văn

[37; 719] Bài văn Ngô Thì Nhậm tế người

vợ thứ tứ của Ngô Thì Sĩ, họ Hoàng.

B112*

Ngô Thì Nhậm

Tế biểu đệ Ngô nhị lang

văn

Hán/ tản văn

[37; 736] Ngô Nhị lang là em họ ngoại của Ngô Thì Nhậm. Khi Ngô Thì Nhậm lánh

nạn năm 1782, được Nhị lang và anh em







họ ngoại giúp đỡ rất nhiều. Nhị lang ốm, Nhậm bận việc triều đình không về được nên khi hay tin em qua đời đã vô cùng đau

đớn làm bài văn tế này.

B113*

Ngô Thì Nhậm

Tế niên hữu Kim Đôi Phạm công văn (Văn tế Phạm Đình

Dư)

Hán/ tiểu phú lưu thuỷ

[37; 740] Phạm công là Phạm Đình Dư, đỗ Tiến sĩ khoa Ất mùi 1775 cùng khoa với Ngô Thì Nhậm. Tuy là người “hoà mà chẳng đồng” với mình, nhưng Ngô Thì Nhậm rất quí người bạn đồng niên này. Bài

văn tế như là 1 nén hương tỏ lòng tri ngộ.

B114*

Ngô Thì Nhậm

Tế hữu Phạm Thạch Động công văn (Văn tế Phạm Nguyễn Du)/

1786

Hán/ tản văn

[37; 737] Phạm Nguyễn Du (hiệu là Thạch Động) cùng Ninh Tốn (1744-1795) và Ngô Thì Nhậm là 3 người bạn thân. Thạch Động mất trước, Ngô Thì Nhậm làm văn tế bạn.

B115*

Ngô Thì Nhậm

Tế hữu Chuyết Sơn Hy Chí thị văn (Văn tế Ninh Tốn)/ 1795

Hán/ tản văn

[37; 742] Ninh Tốn (tự là Hi Chí, hiệu Chuyết Sơn, 1743-1795?), Tiến sĩ khoa Mậu tuất 1778. Giữ chức Đốc học triều Tây Sơn. Ông mất sau Phạm Nguyễn Du. Ba người bạn thân nay chỉ còn 1 mình Ngô Thì Nhậm nên Nhậm rất đau buồn làm bài

văn tế này.

B116*

Ngô Thì Nhậm

Cáo Sàng Đồng trại cô hồn văn

Hán/ tứ ngôn trường

thiên

[37; 690] Ngô Thì Nhậm lập trại ở Sàng Đồng cho các cô hồn có nơi nương tựa. Đây là bài văn cáo cô hồn sau khi trại lập

xong.

B117*

Vò Phát

Văn tế Cao Thắng/ 1893

Nôm/ luật phú độc vận

[21; 90] Cao Thắng (1865-1893) là người giỏi vò, 20 tuổi theo đội quân Hương Sơn của Phan Đình Phùng (1844-1895), lập nhiều chiến công. Trong trận đánh đồn No, Cao Thắng bị trúng đạn chết. Dân quân đều thương tiếc. Phan Đình Phùng nhiều

lần khóc thương và đọc bài văn tế này vào lễ chung thất do Vò Phát soạn.

B118

Bùi Phụng/

cuối XIX

Văn tế Cơ-ri- vi-ê


Theo Nguyễn Q.Thắng [122; 52]

B119*

Bà Huyện Thanh

Quan/ XIX

Song nữ tế tế Thái thuỷ văn

Nôm/ luật phú

độc vận

[48; 89] Văn do Bà Huyện Thanh Quan làm thay hai chàng rể tế nhạc mẫu.

B120*

Phan Quốc Quang (1889-

1966)

Văn tế tình nhơn/ đầu XX

Nôm/ luật phú độc vận

[52, T2 ; 109]

B121*

Phan Quốc Quang

Văn tế điếu Phan Thanh

Giản

Luật phú độc vận

[93; 343]



B122- B123*

Đặng Đức Siêu(1) (1751-

1810)

Văn tế Bá Đa Lộc (2 bài)/

1799

Nôm/ luật phú độc vận

[52, T2; 28-32] Bá Đa Lộc tên thật Pierre Joseph Georges Pigneau (de Béhaine) sanh năm 1741 ở Aisene (Pháp), mất năm 1799 ở Mỹ Cang (gần Quy Nhơn), lễ an táng ở Sài Gòn. Đặng Đức Siêu có làm 2 bài văn tế Nôm, một để Nguyễn vương đọc, một

cho Hoàng tử Cảnh đọc.

B124*

Đặng Đức Siêu

Phụng dụ tế Phò mã Chưởng hậu quân Vò Tánh, Lễ bộ Tham tri Ngô Tùng Châu (Văn tế Vò Tánh và Ngô Tùng Châu)/

1801

Nôm/ luật phú độc vận

[32; 45] Năm Tân dậu 1801, Vò Tánh (?- 1801) và Ngô Tùng Châu (?-1801) giữ thành Bình Định. Bị Tây Sơn vây khốn hết lương, Vò Tánh tự thiêu ở lầu Bát Giác, Ngô Tùng Châu uống thuốc độc tự tử. Đặng Đức Siêu theo lệnh Nguyễn vương làm bài văn tế này.

B125*

Đặng Đức Siêu

Văn tế Châu Văn Tiếp/ 1803

Nôm/ luật phú độc vận

[178] Châu Văn Tiếp (1738-1784) theo Nguyễn Ánh chống Tây Sơn. Ông tử trận ở Mân Thít năm 1784. Khi cải táng mộ vào

cuối năm 1802, Đặng Đức Siêu tuân lệnh Gia Long làm bài văn tế này.

B126*

Trần Đình Tân (1893-

1979)

Văn tế cô hồn/ XX

Nôm/ luật phú độc vận

[32; 145] Bài này tác giả viết cho đồng bào thôn Cảnh Vân (tỉnh Bình Định) tế cô hồn hàng năm vào tiết thanh minh tại chùa

Thanh Minh trong thôn.

B127*

Trần Đình Tân

Văn tế Quang Trung hoàng đế

Nôm/ luật phú độc vận

[32; 154] Bài này tác giả viết cho đồng bào Bình Định tế vua Quang Trung tại điện Tây Sơn hàng năm vào ngày kỷ niệm chiến

thắng Đống Đa (mồng 5 tháng 1).

B128

Trần Đình Tân

Văn tế chồng

Nôm/ luật phú

độc vận

[32; 151] Trần Đình Tân viết bài này cho cháu dâu tế chồng là Trần Bùi Tung, cháu

kêu tác giả bằng chú ruột.

B129

Nguyễn Quý Tân (1814-

1858)

Văn tế sống vợ/ XIX


Theo Nguyễn Huyền Anh [17; 211] Nguyễn Quý Tân là danh sĩ đời Nguyễn, sở trường về lối văn trào phúng. Văn chương của ông được người đời truyền tụng vì tính cách hài hước trào lộng, trong đó có bài

Văn tế sống vợ.

B130*

Vũ Huy Tấn (1749-

1800)

Phụng soạn tôn tế bắc lai trận vong chư tướng văn/ Tây Sơn

Hán/ luật phú độc vận

[68; 138] Sau khi đánh tan quân Thanh, vua Quang Trung sai Vũ Huy Tấn làm bài văn này tế các tướng sĩ nhà Thanh tử trận. Bài văn tế vừa thể hiện lòng tự hào dân tộc, lòng yêu nước, vừa thể hiện lòng nhân đạo

sâu sắc đối với tướng sĩ nhà Thanh.



1 Theo Đặng Quý Địch, hiện Đặng Đức Siêu còn để lại 6 bài văn tế Nôm [32; 45].



B131*

Phạm Thái (1777-

1813)

Văn tế Trương Quỳnh Như/ đầu XX

Nôm/ tản văn cổ

[21; 49] Phạm Thái và Trương Quỳnh Như yêu nhau nhưng bị thân mẫu của Quỳnh Như phản đối bắt nàng gả cho 1 tên trọc phú. Trương Quỳnh Như tự tử. Phạm Thái làm bài văn tế này để nói lên mối tình tuyệt

vọng và thương tiếc người yêu.

B133*

Phạm Thanh

Văn tế vua lễ tế các tướng

sĩ đánh Pháp bị tử trận

Hán/ phú

[35; 298] Xem xuất xứ ở B9.

B134*

Nguyễn Văn Thành (1757-

1817) hoặc Vũ Lượng?

Tế trận vong tướng sĩ văn/ Nguyễn sơ

Nôm/ luật phú độc vận

[26; 38], [21; 51] Năm 1802, Nguyễn Ánh

(1762-1819) lên ngôi, cử Nguyễn Văn Thành làm Tổng trấn Bắc Thành. Nguyễn Văn Thành đã làm bài văn tế này trong lễ truy điệu để tỏ lòng nhớ ơn các tướng sĩ tử trận trong công cuộc giúp Gia Long bình Tây Sơn. Có người cho rằng bài này do

người khác làm cho Nguyễn Văn Thành đọc. Đây là một bài văn tế Nôm xuất sắc.

B135*

Đỗ Bỉnh Thành

Văn tế anh

Nôm/

luật phú độc vận

[95; 557] Thủ khoa Đỗ Bỉnh Thành tế anh ruột là Đỗ Ích Khiêm.

B136

Nguyễn Phúc Thì (Tự Đức) (1829-

1883)

Văn tế ba vị công thần (Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Duy,

Nguyễn Lâm)


Theo Nguyễn Q. Thắng [122; 979].

B137

Nguyễn Phúc Thì (Tự Đức)

Văn tế người em thứ tư là Kiến Thuỵ Quận vương

Hán?/ tứ ngôn trường thiên

[31; 250] Tự Đức (1848-1883) là vua thứ tư triều Nguyễn. Em thứ tư của vua là Kiến Thuỵ Quận vương mất, đích thân vua làm bài văn tế này bày tỏ tình cảm sâu sắc với

em.

B138

Phạm Quý Thích (1760-

1825)

Trịnh trưởng công chúa thành phục văn/ XVIII

Hán/ luật phú độc vận

[5; 2b] Văn tế nhân lễ thành phục Trưởng công chúa họ Trịnh.

B139

Phạm Quý

Thích

Tế văn

Hán/ tản

văn

[3; 10a] Phạm Quý Thích tế bá mẫu là

chánh thất của Tạo sĩ triều Lê Vũ Tá Kính.

B140*

Nguyễn Đăng Thịnh (1696-

1755)

Tế Hình bộ Uẩn Thiện hầu văn (Văn tế Lê Xuân Hy?)/1749

Hán/ tản văn

[118; 671] Uẩn Thiện hầu có thể là Lê Xuân Hy (?-1749)(1). Lúc đầu làm Ký lục dinh Bố Chính. Sau thăng Khâm sai Binh vụ dinh Bố Chính, sau nữa thăng lên bộ Hình. Lê Xuân Hy chết năm 1749. Nguyễn

Đăng Thịnh, lúc đó đang làm ở bộ Lễ và



1 Theo Cao Tự Thanh, Một bài văn tế của Nguyễn Đăng Thịnh” [116; 671].







bộ Lại chủ trì việc lễ nghi của triều đình,

đã soạn bài văn tế này.

B141*

Nguyễn Văn Thoại (Thoại Ngọc hầu) (1761-

1829)

Tế nghĩa trủng văn/ XIX

Hán/ tứ ngôn tao thể

[50; 204] Cuối năm 1819, Nguyễn Văn Thoại cho khởi công đào kinh Vĩnh Tế. Trong quá trình đào kinh, nhiều dân quân đã chết vì nhiều lý do khác nhau. Sau khi công việc hoàn thành, bài văn tế được làm ra để Thoại Ngọc hầu đọc trong lễ cải táng

tập thể những người đã chết.

B142

Nguyễn

Thông

Tế văn/ 1865

Hán/ tản

văn

[6; 10a] Năm 1865, Nguyễn Thông tế

người em trai tự là Quý Hoà (Hài).

B143*

Nguyễn Thuật (1842-

1911)

Nguyễn Thuật tế mẫu văn

Hán/ tiểu phú độc vận

[9; 7a] Nguyễn Thuật là 1 danh sĩ, tác gia văn học và sử gia triều Nguyễn. Khi mẹ

qua đời, ông làm bài văn tế mẹ tuy ngắn gọn nhưng thể hiện rò lòng hiếu thảo.

B144*

Nguyễn Thuật

Nguyễn Thuật

tế trưởng di văn

Hán/ tản văn

[9; 6b] Bài văn Nguyễn Thuật tế dì cả.

B145*

Nguyễn Thuật

Tế Hải Dương

Trấn thủ Trần hầu văn

Hán/ tản văn

[9; 10b] Văn tế quan Trấn thủ Hải Dương là Trần hầu.

B146*

Nguyễn Đôn Tiết (1831-

1886)

Văn tế Nguyễn Tri Phương/ XIX

Nôm/ tiểu phú

[79, T19; 281] Nguyễn Tri Phương (1800- 1873) tử tiết trong trận Pháp tấn công thành Hà Nội năm 1873. Trong trận này con trai ông là Phò mã Nguyễn Lâm (1844- 1873) cũng tử trận. Nguyễn Đôn Tiết làm

bài văn tế này tỏ ý cảm phục khí tiết của hai cha con họ Nguyễn.

B147

Nguyễn Trọng Tổn

Văn tế Vò Trường Toản và Phan Thanh Giản/ 1902

Hán/ tản văn

[93; 292] Năm 1902, Tri phủ Thái Hữu Vò trấn nhậm quận Ba Tri, đến viếng và tu bổ mộ 2 ông Vò Trường Toản và Phan Thanh Giản. Nhân lễ tế Thành Hoàng và 2 ông, người đại diện Hội đồng Bảo an là Nguyễn

Trọng Tổn đọc bài văn tế này.

B148*

Nguyễn Trọng Trì (1851-

1922)

Văn bà xã tế ông xã

Nôm/ luật phú độc vận

[32; 55] Thuộc văn tế trào lộng. Bài này đả kích tệ cường hào ác bá khá phổ biến trong thời tác giả. Bài văn tế cho ta hiểu được

phần nào tâm hồn và tài năng của ông.

B149*

Đinh Thời Trung/ Hậu Lê

Tế Trạng nguyên Trình Quốc công văn (Văn tế

Nguyễn Bỉnh Khiêm)/ 1585

Hán/ luật phú độc vận

[1; 42a], [8; 25a], [2; 2b], [4; 105a], [10;

22a] Nguyễn Bỉnh Khiêm mất năm 1585, thọ 95 tuổi. Học trò của ông là Đinh Thời Trung thay mặt các đồng môn soạn và đọc bài văn tế này.

B150

Hồ Văn Trung (1884-

1958)

Văn tế khóc Phạm Duy Tri huyện/ đầu

XX


[144]

Xem tất cả 335 trang.

Ngày đăng: 22/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí