thanh khoản thì chuẩn bị phương án tái cấp vốn; nếu ngân hàng được dự báo có khả năng đổ vỡ thì chuẩn bị phương án mua, bán sáp nhập, thanh lý, phá sản ...).
(5) Xếp hạng tổ chức tín dụng
Nguyên tắc và phương pháp xếp hạng các TCTD bao gồm các nội dung cơ bản sau:
- TCTD xếp hạng theo hệ thống tiêu chí và được chia thành các nhóm đồng hạng.
- Các tiêu chí bao gồm nhóm chỉ tiêu định lượng và nhóm chỉ tiêu định tính. Nhóm chỉ tiêu định lượng đo lường mức độ lành mạnh hoạt động ngân hàng trên cơ sở các số liệu phản ánh hoạt động của TCTD. Nhóm chỉ tiêu định tính đo lường mức độ tuân thủ các quy định pháp luật của TCTD.
- Hệ thống tiêu chí được sử dụng làm cơ sở phân nhóm chỉ tiêu khi xếp hạng TCTD bao gồm: Vốn; Chất lượng tài sản; Quản trị điều hành; Kết quả hoạt động kinh doanh; Khả năng thanh khoản; Mức độ nhạy cảm đối với rủi ro thị trường.
- TCTD được xếp hạng vào Hạng A (Tốt), Hạng B (Khá), Hạng C (Trung bình), Hạng D (Yếu) hoặc Hạng E (Yếu Kém) căn cứ vào mức điểm xếp hạng đạt được.
Căn cứ kết quả giám sát, CQTTGSNH điều chỉnh phạm vi và cường độ của hoạt động giám sát tương quan với mức độ r`ủi ro.
b) Nội dung giám sát vĩ mô:
(1) Phân tích mức độ lành mạnh tài chính
Phân tích mức độ lành mạnh tài chính là việc đánh giá tình hình “sức khỏe” của hệ thống các TCTD/nhóm TCTD được phản ánh chủ yếu thông qua việc phân tích về vốn, chất lượng tài sản, tình hình thanh khoản và kết quả kinh doanh, trong đó có thể sử dụng các chỉ số của Bộ chỉ số lành mạnh tài chính (FSI) để phân tích mức độ lành mạnh tài chính của toàn bộ hệ thống TCTD/nhóm TCTD.
(2) Đánh giá hoạt động liên ngân hàng
Đánh giá hoạt động liên ngân hàng là việc đánh giá về tình hình huy động/cho vay trên thị trường liên ngân hàng. Ngoài ra, có thể bổ sung việc đánh giá rủi ro lan truyền (rủi ro liên ngân hàng).
Về khái niệm, rủi ro lan truyền là rủi ro xảy ra với một hoặc một số TCTD mất khả năng thanh toán trên thị trường liên ngân hàng (rủi ro vỡ nợ liên ngân hàng). Ngoài ra, nó cũng tiềm tàng khả năng về sự lan truyền rủi ro thanh khoản của một ngân hàng xuất phát từ rủi ro của một ngân hàng khác. Mô hình cơ bản về sự lan truyền của thanh khoản được thể hiện ở một phần trong mục rủi ro thanh khoản. Rủi ro lan truyền có hai loại là rủi ro liên ngân hàng thuần túy và rủi ro lan truyền vĩ mô.
- Rủi ro liên ngân hàng thuần túy: Minh họa điều gì sẽ xảy ra với các ngân
hàng khác khi một ngân hàng không có khả năng thanh toán các khoản nợ trên thị trường liên ngân. Để thực hiện kiểm tra đối với loại rủi ro này, cần thiết lập một ma trận về các khoản vay liên ngân hàng thuần túy.
- Rủi ro lan truyền vĩ mô: Là rủi ro xảy ra đối với ngân hàng khi có sự biến động về các yếu tố kinh tế vĩ mô, trong phần này sẽ không giả định về sự vỡ nợ của một ngân hàng trên thị trường liên ngân hàng.
(3) Đánh giá tình hình sở hữu, đầu tư
Bao gồm việc đánh giá tình hình sở hữu, cổ đông, cổ phần, tình hình đầu tư của các TCTD. Về tình hình đầu tư, tập trung vào phân tích đánh giá xu hướng biến động và cơ cấu các khoản đầu tư giấy tờ có giá. Các cán bộ có thể đánh giá cơ cấu các khoản Đầu tư giấy tờ có giá phân chia theo chủ thể phát hành (tổ chức kinh tế, TCTD khác, Chính phủ…), theo loại hình Chứng khoán (Chứng khoán nợ, chứng khoán vốn), theo kỳ hạn, theo loại tiền. Cán bộ giám sát cần lưu ý đánh giá về Trái phiếu doanh nghiệp phân theo ngành kinh tế (Công nghiệp, Nông nghiệp, Đầu tư kinh doanh bất động sản…), Trái phiếu doanh nghiệp phân theo loại hình tổ chức (Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Doanh nghiệp Nhà nước, Doanh nghiệp tư nhân…).
Ngoài ra, cần phân tích đánh giá xu hướng biến động và cơ cấu các khoản đầu tư vào công ty con, công ty liên kết, Góp vốn liên doanh, Đầu tư dài hạn khác, Các khoản mua nợ, Đầu tư vào tài sản cố định…
(4) Nhận diện, đánh giá thực trạng, xu hướng, mức độ rủi ro và tác động có khả năng xảy ra đối với nhóm và toàn bộ hệ thống
Nội dung này bao gồm việc đánh giá thực trạng, diễn biến (xu hướng) và nhận định về mức độ rủi ro của các loại rủi ro tín dụng, thanh khoản, thị trường (lãi suất, tỷ giá) và hoạt động. Để thực hiện, cán bộ giám sát căn cứ các thông tin đầu vào từ hệ thống báo cáo thống kê, báo cáo tài chính và các nguồn thông tin khác để tính toán các chỉ tiêu/chỉ số phản ánh các loại rủi ro trên; xem xét diễn biến (xu hướng) các chỉ tiêu/chỉ số và so sánh với ngưỡng tham chiếu (nếu có). Ngoài ra, cán bộ giám sát cần kết hợp với các thông tin định tính khác để đánh giá đầy đủ về tác động có khả năng xảy ra đối với nhóm và toàn bộ hệ thống các TCTD.
(5) Kiểm tra sức chịu đựng trước các thay đổi chính sách và môi trường kinh tế vĩ mô đối với nhóm và toàn bộ hệ thống
Kiểm tra sức chịu đựng là việc đánh giá khả năng chống đỡ của nhóm và toàn bộ hệ thống các TCTD trước các thay đổi về chính sách và các yếu tố kinh tế vĩ mô. Thông thường, để tiến hành bài kiểm tra sức chịu đựng, cần xây dựng các kịch bản về chính sách cũng như các kịch bản về rủi ro (ví dụ tỷ giá biến động mạnh, lãi suất
tăng đột ngột, khủng hoảng rút tiền hàng loạt…). Thông qua việc kiểm tra khả năng chống đỡ của nhóm và toàn bộ hệ thống, cơ quan quản lý có được bức tranh tương đối toàn diện về diễn biến về vốn, chất lượng tài sản và nhu cầu về thanh khoản trong các tình huống mang tính chất bất lợi.
(6) Khả năng xảy ra khủng hoảng ngân hàng và biện pháp ứng phó
Để thực hiện nội dung này, cán bộ giám sát có thể áp dụng các mô hình kinh tế lượng có khả năng lượng hóa xác suất đổ vỡ/xác suất xảy ra khủng hoảng ngân hàng; đồng thời, phân tích các khía cạnh liên quan đến tình hình kinh tế vĩ mô, thực trạng khu vực tài chính – ngân hàng và các khu vực liên quan khác của nền kinh tế như khu vực sản xuất, bất động sản, chứng khoán...
1.2.3. Phương pháp thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro
Việc thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro vừa gắn với cuộc thanh tra một TCTD cụ thể, đồng thời, gắn với một quá trình giám sát liên tục TCTD nên phương pháp thanh tra thường đa dạng, đảm bảo phù hợp với từng đối tượng và mục đích cuộc thanh tra. Hiện nay, thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro được triển khai theo những cách thức khác nhau ở những nước khác nhau, một số phương pháp thường áp dụng là:
1.2.3.1. Phương pháp thanh tra
(i) Đánh giá đối tượng thanh tra trên góc độ tổng thể, đa chiều, dự báo rủi ro trong tương lai.
Khi thực hiện thanh tra trên cơ sở rủi ro, thanh tra viên không chỉ kiểm tra sự tuân thủ pháp luật mà còn nhận diện, đánh giá mức độ rủi ro trong trường hợp TCTD không tuân thủ pháp luật. Phạm vi thanh tra trên cơ sở rủi ro không chỉ một lĩnh vực/nghiệp vụ đơn thuần, không chỉ tập trung vào hồ sơ được chọn mẫu, mà đánh giá tổng thể hoạt động của TCTD trên tất cả các mặt tổ chức và hoạt động như cơ cấu tổ chức bộ máy, cơ chế phân cấp phân quyền, năng lực quản trị điều hành; các chính sách, quy định nội bộ; công tác kiểm toán nội bộ, kiểm soát nội bộ; hệ thống thông tin quản lý... Bên cạnh việc chỉ ra những nguyên nhân của rủi ro, sai phạm, thanh tra trên cơ sở rủi ro còn đưa ra những dự báo, khuyến nghị về rủi ro tiềm tàng trong tương lai.
(ii) Tối đa hóa thông tin có thể khai thác được từ TCTD
Thông thường, để phục vụ cho quá trình thanh tra, ban hành báo cáo kết quả thanh tra và kết luận thanh tra, Đoàn thanh tra sẽ yêu cầu TCTD cung cấp bảng cân đối tài chính, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo kiểm toán độc lập, các báo cáo tài chính và kế toán khác, báo cáo thống kê, quy trình, quy định nội bộ, thông tin về hoạt động, quản lý, kết quả kiểm toán nội bộ, hồ sơ nghiệp vụ... để tiến hành nghiên cứu, xem xét và đánh giá thực trạng hoạt động và rủi ro của đơn vị.
Ngoài ra, Đoàn thanh tra còn tiến hành phỏng vấn, trả lời bảng câu hỏi, đối thoại, thảo luận với lãnh đạo quản trị điều hành cấp cao, các bộ phận liên quan của TCTD để yêu cầu giải trình các vấn đề liên quan; khảo sát tác nghiệp, viếng thăm từng phòng/ban, kiểm tra hệ thống máy tính phục vụ hoạt động kinh doanh và quản lý của TCTD.
(iii) Đánh giá chất lượng quản lý rủi ro, mức độ rủi ro, xu hướng rủi ro và rủi ro tổng thể của TCTD.
Tại Báo cáo kết quả thanh tra và Kết luận thanh tra, Đoàn thanh tra phải đánh giá được chất lượng quản trị rủi ro, mức độ rủi ro, xu hướng rủi ro và rủi ro tổng thể của từng loại rủi ro chính tại TCTD. Theo thông lệ, danh mục rủi ro chính cần được đánh giá, gồm: rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro thanh khoản và rủi ro hoạt động.
Về chất lượng quản trị rủi ro, Đoàn thanh tra cần phải đánh giá rủi ro được TCTD nhận dạng, đo lường, kiểm soát và giám sát đến mức độ như thế nào, trên cơ sở xem xét bốn yếu tố chính: (i) Giám sát của HĐTV/Ban điều hành TCTD; (ii) Chính sách/Quy trình/Thủ tục/Hạn mức; (iii) Kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ; (iv) Hệ thống thông tin quản lý (trong đó có hệ thống công nghệ thông tin hỗ trợ). Kết quả đánh giá chất lượng quản trị rủi ro theo các mức “Tốt”, “Đạt yêu cầu”, “Yếu”.
Về mức độ rủi ro, Đoàn thanh tra cần phải đánh giá về quy mô/mức độ rủi ro mà TCTD phải đối mặt, tương ứng với “Thấp” , “Trung bình” và “Cao”. Căn cứ để đánh giá mức độ rủi ro là tình hình TCTD thực hiện chính sách, quy trình, thủ tục, hạn mức nội bộ, quy định của pháp luật, kết quả kiểm tra chọn mẫu hồ sơ của Đoàn thanh tra về hoạt động nghiệp vụ có liên quan.
Về xu hướng rủi ro, Đoàn thanh tra cần xem xét những thay đổi của rủi ro có độ chắc chắn cao, thường là trong vòng 12 tháng tới. Xu hướng rủi ro được đánh giá là “Tăng”, “Giảm” hoặc “Ổn định”. Nếu trạng thái rủi ro không có các dấu hiệu thay đổi hoặc có các biện pháp giảm thiểu phù hợp thì được đánh giá là “ổn định”; nếu trạng thái rủi ro có dấu hiệu rõ rệt, được cải thiện xu hướng tích cực hơn thì đánh giá là “giảm” hoặc ngược lại là “tăng”. Việc đánh giá trạng thái rủi ro sẽ hiệu quả hơn khi gắn kết giữa kết quả thanh tra và xu hướng tác động của chính sách, của thị trường đối với trạng thái rủi ro được xem xét, đánh giá.
Sau khi đánh giá chất lượng quản trị rủi ro, mức độ và xu hướng của rủi ro, Đoàn thanh tra xác định mức rủi ro tổng thể của TCTD, tương ứng với mức “Cao”, “Trung bình” hoặc “Thấp”. Bảng ma trận xếp hạng rủi ro tổng thể được xây dựng trên cơ sở tổng hợp và phân tích kết quả đánh giá chất lượng quản trị rủi ro và mức độ rủi ro của TCTD, sau đó sẽ kết hợp với xu hướng rủi ro để đưa ra kết quả cuối cùng. Bảng ma trận được sử dụng như sau:
Chất lượng của quản lý rủi ro | |||
Tốt | Đạt yêu cầu | Yếu | |
Cao | Trung bình | Cao | Cao |
Trung bình | Thấp | Trung bình | Cao |
Thấp | Thấp | Thấp | Trung bình |
Có thể bạn quan tâm!
- Hiệu Quả Của Thanh Tra, Giám Sát Trên Cơ Sở Rủi Ro
- Khái Quát Về Hoạt Động Thanh Tra, Giám Sát Của Ngân Hàng Trung Ương Đối Với Các Tổ Chức Tín Dụng
- Đối Với Hoạt Động Của Các Tổ Chức Tín Dụng
- Kinh Nghiệm Về Thanh Tra, Giám Sát Trên Cơ Sở Rủi Ro Đối Với Các Tổ Chức Tín Dụng Của Một Số Quốc Gia
- Khuôn Khổ Pháp Lý Cho Hoạt Động Thanh Tra, Giám Sát Các Tổ Chức Tín Dụng
- Khuôn Khổ Pháp Lý Cho Hoạt Động Thanh Tra, Giám Sát Các Tổ Chức Tín Dụng
Xem toàn bộ 240 trang tài liệu này.
Kết quả xếp hạng rủi ro tổng thể được thể hiện ở ô giao nhau. Ví dụ: Chất lượng quản lý rủi ro được xếp là “Đạt yêu cầu”, mức độ rủi ro là “Cao” thì rủi ro tổng thể được đánh giá là “Cao”. Việc xếp hạng rủi ro là căn cứ để đưa ra các kiến nghị TCTD phải thực hiện, các biện pháp chỉnh sửa, khắc phục, phòng ngừa và giảm thiểu rủi ro.
Những thang tiêu chí hay ma trận nêu trên là cơ bản, được áp dụng phổ biến ở những nước đã triển khai thanh tra trên cơ sở rủi ro, nhưng không phải là cố định và cứng nhắc. Mỗi nước có thể bổ sung, điều chỉnh và hoàn thiện các mức độ/thang điểm đánh giá tùy vào nhận định chủ quan và tình hình thanh tra thực tế của từng nước.
1.2.3.2. Phương pháp giám sát
(i) Sử dụng các phương pháp phân tích trong giám sát TCTD:
Cho đến nay, hai phương pháp phân tích chủ yếu được các quốc gia sử dụng để thực hiện giám sát từ xa đối với hệ thống TCTD là phương pháp phân tích tài chính và phương pháp phân tích thống kê (kinh tế lượng):
- Phương pháp phân tích tài chính đặt trọng tâm phân tích các chỉ tiêu, chỉ số tài chính, các báo cáo tài chính thông qua một hệ thống các công cụ và kỹ thuật phân tích, qua đó tìm ra những xu hướng, biến động và tìm ra những mối quan hệ có mâu thuẫn với các thông tin khác nhau hoặc có chênh lệch lớn so với giá trị đã dự kiến nhằm giúp cơ quan quản lý có thể đánh giá, tìm ra những điểm mạnh, điểm yếu, rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động kinh doanh của TCTD.
- Phương pháp phân tích thống kê (kinh tế lượng) là phương pháp xây dựng các mô hình thống kê và mô hình kinh tế lượng để xác định và đưa ra cảnh báo mức độ rủi ro của TCTD.
(ii) Kết hợp chặt chẽ giữa giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ
Yêu cầu của Ủy ban Basel về thanh tra, giám sát ngân hàng hiệu quả đã nêu “Cơ quan giám sát sử dụng kết hợp hợp lý giữa thanh tra tại chỗ và giám sát từ xa”. Theo nguyên tắc số 9 về Các kỹ thuật và công cụ giám sát trong 29 nguyên tắc cơ bản về thanh tra, giám sát ngân hàng hiệu quả của Ủy ban Basel (ban hành năm 2012): “1. Cơ quan giám sát sử dụng kết hợp hợp lý giữa thanh tra tại chỗ và giám sát từ xa để đánh giá tình hình, điều kiện của các ngân hàng... Sự kết hợp cụ thể
giữa thanh tra tại chỗ và giám sát từ xa có thể được xác định, quyết định bởi những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của từng quốc gia và ngân hàng...; 2. Cơ quan giám sát có một quy trình chặt chẽ, mạch lạc để lập kế hoạch và thực hiện các hoạt động thanh tra tại chỗ và giám sát từ xa...”.
Việc thực hiện giám sát thường xuyên, liên tục và chủ động sẽ đóng góp một phần quyết định vào chất lượng thanh tra tại chỗ đối với TCTD, định hướng cho việc xây dựng kế hoạch thanh tra, tập trung phân bổ nguồn lực thanh tra một cách hợp lý, hiệu quả nhất.
Ngược lại, thanh tra tại chỗ giải quyết được 2 vấn đề là phát hiện rủi ro và đánh giá thực trạng của TCTD, thì quá trình xử lý sau thanh tra sẽ quyết định đến chất lượng, mức độ, tiến độ cải thiện tình hình, khắc phục những yếu kém tại TCTD. Các quá trình này sẽ cung cấp thông tin để xác định nội dung và cách thức của hoạt động giám sát.
(iii) Đa dạng hóa các kênh thông tin hỗ trợ quá trình giám sát
Để nắm bắt thường xuyên, kịp thời và đầy đủ hoạt động của các TCTD, bên cạnh việc yêu cầu các TCTD thực hiện các chế độ báo cáo theo yêu cầu của cơ quan quản lý, các Cơ quan Thanh tra, giám sát thường sử dụng đa dạng các kênh thông tin như làm việc trước với Ban Lãnh đạo của TCTD nhằm tìm hiểu về các hoạt động kinh doanh chính và công tác quản lý rủi ro của TCTD; Trao đổi, hợp tác với các đơn vị kiểm toán độc lập; Trao đổi với các cơ quan giám sát hệ thống tài chính quốc gia; Trao đổi thông tin với các cơ quan giám sát nước nguyên xứ nơi có TCTD nước ngoài hoạt động tại nước sở tại... Thông tin tổng thể về TCTD và về hệ thống TCTD được tổng hợp trên cơ sở đa chiều thông tin từ các kênh trên.
1.2.4. Quy trình thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro
Nghiên cứu quy trình thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro của một số quốc gia cho thấy cho dù là 6 bước (như Hàn Quốc) hay rút gọn thành 4-5 bước (như Mỹ, Malaysia) thì nội dung của quy trình thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro là không thay đổi, với thứ tự bao gồm:
(i) Thu thập thông tin của tổ chức: Là bước đầu tiên của quy trình thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro nhằm thu thập thông tin cần thiết cho hoạt động thanh tra, giám sát và đánh giá rủi ro. Các hoạt động chính của bước này bao gồm: tìm hiểu hoạt động kinh doanh của TCTD, xác định các hoạt động trọng yếu, xây dựng hồ sơ rủi ro. Sản phẩm đầu ra của bước này là ma trận rủi ro và tài liệu đánh giá rủi ro.
(ii) Lập kế hoạch: Bước này bao gồm các hoạt động xây dựng và phê duyệt Kế hoạch thanh tra, giám sát hàng năm đối với từng TCTD. Mức độ, tần suất thanh tra,
giám sát phụ thuộc vào tính chất, quy mô, mức độ phức tạp và hồ sơ rủi ro của TCTD.
(iii) Thanh tra/kiểm tra tại chỗ: Bước này bao gồm các hoạt động chuẩn bị và tiến hành thanh tra theo quy định của pháp luật. Các hoạt động thanh tra tại chỗ được hỗ trợ bởi các thông tin từ hoạt động giám sát từ xa.
(iv) Thực hiện các biện pháp giám sát:
- Căn cứ kết quả thanh tra, hoàn thiện Bộ hồ sơ, tài liệu toàn diện về hoạt động thanh tra. Bộ hồ sơ này được xây dựng trên cơ sở thông tin từ hoạt động giám sát từ xa, tài liệu đánh giá rủi ro, ma trận rủi ro, các biên bản làm việc, giải trình của đối tượng thanh tra...; Xây dựng Báo cáo kết quả thanh tra và Kết luận thanh tra.
- Trên cơ sở Kết luận thanh tra, xác định mức độ rủi ro và mức độ can thiệp tương ứng.
- Sau khi Kết luận thanh tra được công bố, Cơ quan quản lý theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra. Từ đó, xây dựng báo cáo theo dõi, xử lý sau thanh tra và cập nhật tài liệu đánh giá rủi ro.
Theo đó, giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ là các khâu của một chu trình khép kín, được kết hợp chặt chẽ với nhau: giám sát là “đầu vào” của thanh tra và thanh tra là cơ sở cho chu kỳ giám sát tiếp theo.
1.2.5. Công cụ thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro
Giám sát trên cơ sở rủi ro thể hiện thông qua quy trình giám sát, tổng hợp và phân tích tình trạng các TCTD. Điều này dẫn tới những yêu cầu về tổ chức hệ thống thông tin báo cáo mà đặc biệt là công tác quản trị dữ liệu để sẵn sàng cho các yêu cầu khi cần phân tích, tổng hợp và ra quyết định. Việc này đòi hỏi phải có các công cụ hỗ trợ để có thể soát xét ở mức độ tổng thể cũng như dự báo rủi ro. Ở đây công cụ được hiểu là những ứng dụng công nghệ được xây dựng để triển khai những mô hình tính toán, phân tích và tổng hợp số liệu phục vụ yêu cầu cho công tác phân tích, đánh giá và tổng hợp thông tin. Bất kỳ công cụ nào, mục tiêu cuối cùng là phân tích thông tin do TCTD báo cáo, đưa các thông tin vào một định dạng được chuẩn hóa để các cán bộ phân tích có thể so sánh các TCTD với nhau qua các thời kỳ (Sổ tay giám sát ngân hàng, 2017).
Tùy thuộc vào đặc thù của từng quốc gia như quy mô và tần suất thanh tra tại chỗ, cơ chế giám sát từ xa; mức độ, bản chất và độ tin cậy của các báo cáo; sự sẵn có của các nguồn thông tin đáng tin cậy khác; sự sẵn có của các nguồn dữ liệu lịch sử về tổn thất và đổ vỡ trong hệ thống TCTD; mức độ phát triển của công nghệ; nguồn lực tài chính và nhân lực cần thiết mà mỗi nước có hệ thống mô hình phân tích định lượng khác nhau. Tuy nhiên, có thể phân loại các công cụ giám sát trên cơ sở rủi ro thành hai loại (Ranjana, 2000): (1) Các mô hình phân tích nhóm đồng hạng
và chỉ số tài chính; (2) Các mô hình thống kê. Cụ thể:
1.2.5.1. Các mô hình phân tích nhóm đồng hạng và chỉ số tài chính
Phân tích các chỉ số tài chính cho từng TCTD sẽ đưa ra cảnh báo nếu một chỉ số vượt quá mức quan trọng (ngưỡng) đã được định trước, hoặc nằm ngoài khoảng giá trị cho phép. Phân tích nhóm đồng hạng được triển khai trên cơ sở các chỉ số tài chính cho một nhóm TCTD, sử dụng để xem liệu một TCTD có đang hoạt động khác biệt nhiều so với các TCTD cùng nhóm, nguyên nhân là gì và có gây ra lo ngại gì cần giám sát hay không. Các nhóm đồng hạng có thể được hình thành trên cơ sở quy mô tài sản (TCTD lớn, nhỏ) hoặc các phân khúc cụ thể của hệ thống TCTD (ngân hàng thương mại nhà nước, ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng nước ngoài, ngân hàng hợp tác xã, công ty tài chính/ cho thuê tài chính…). Các chỉ số riêng lẻ của từng TCTD được so sánh với nhóm TCTD của nó, từ đó có thể phát hiện các TCTD có chỉ số tài chính xấu so với mức trung bình của cả nhóm (Ranjana, 2000).
Phân tích chỉ số tài chính và nhóm đồng hạng cũng được sử dụng để kiểm tra các xu hướng trong hệ thống TCTD hoặc trong một khu vực của hệ thống. Nó cũng được sử dụng để tiến hành các kiểm tra sức chịu đựng và phân tích các kịch bản, chẳng hạn như tình trạng của các TCTD trước các điều kiện tài chính bất lợi hoặc trong một bối cảnh kinh tế vĩ mô nào đó.
1.2.5.2. Các mô hình thống kê
Việc thiết kế và sử dụng các mô hình thống kê nhằm mục đích “cảnh báo sớm”. Chúng được xây dựng và thực hiện trên cơ sở dữ liệu và sử dụng các kỹ thuật định lượng tiên tiến nhằm ước tính rủi ro từ các chỉ tiêu sức khỏe và hiệu quả hoạt động của TCTD. Dựa trên các ước tính này, các mô hình phân định các TCTD có rủi ro đổ vỡ cao trong tương lai với các TCTD có rủi ro thấp.
1.2.5.3. Một số mô hình áp dụng phổ biến trong hoạt động thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro của Ngân hàng Trung ương đối với các tổ chức tín dụng
a) Hệ thống đánh giá, xếp hạng CAMELS
* Khái quát
Năm 1987, Cục Quản lý các tổ hợp tín dụng Hoa Kỳ (NCUA) xây dựng hệ thống đánh giá tình trạng hoạt động của các TCTD thông qua bộ chỉ số (hay còn gọi là bộ chỉ tiêu) theo năm cấu phần (vốn, tài sản, quản trị, sinh lời, thanh khoản) với tên viết tắt ban đầu là “CAMEL”. Đến năm 1997, cấu phần “S” – độ nhạy với rủi ro thị trường được thêm vào hệ thống đánh giá này và theo đó được biết đến rộng rãi với tên gọi Hệ thống đánh giá, xếp hạng CAMELS (Federal Reserve Bank of San Francisco).
CAMELS là viết tắt của các từ tiếng Anh gồm: C=Capital adequacy (Khả