từng TCTD giúp cơ quan quản lý đưa ra các chương trình thanh tra, giám sát một cách thích hợp và tiết kiệm thời gian.
Ngoài ra, phương pháp thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro còn đem lại những ưu điểm sau đây:
(i) Chủ động ứng phó với rủi ro: Khác với phương pháp thanh tra, giám sát tuân thủ - hoạt động thanh tra được thực hiện như nhau đối với tất cả các TCTD, thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro tập trung vào hồ sơ rủi ro cụ thể của từng TCTD, đánh giá cách thức mà người chủ sở hữu, người điều hành giám sát rủi ro tại tổ chức của họ. Phương pháp này yêu cầu thanh tra viên phải xem xét việc TCTD đã, đang và sắp đối mặt với những loại rủi ro nào, trong phạm vi nào thì sẽ dẫn đến rủi ro làm ảnh hưởng đến toàn bộ ngành ngân hàng...
(ii) Khả năng dự báo: Sau khi đánh giá rủi ro ròng cho từng hoạt động kinh doanh quan trọng, sẽ là dự báo về chiều hướng rủi ro mà hoạt động đó sẽ gặp phải trong tương lai. Chiều hướng rủi ro này giúp TCTD đưa ra giải pháp về quản trị rủi ro nhằm có những biện pháp giảm thiểu rủi ro cho hoạt động này trong tương lai.
(iii) Quá trình liên tục: Việc đánh giá được diễn ra liên tục theo từng bước của quy trình thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro, kết quả thu thập được trong quá trình thanh tra, giám sát được cập nhật để bổ sung cho thông tin ở bước tiếp theo.
(iv) Khả năng tập trung: Không giống với thanh tra tuân thủ là quy trình thanh tra diễn ra giống nhau với tất cả các TCTD, trong thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro, việc đánh giá và xác định rủi ro chỉ tiến hành cho những hoạt động quan trọng trong TCTD, đối với từng hoạt động này cũng chỉ tiến hành đánh giá một số rủi ro chính quan trọng nhất. Dựa vào mức độ rủi ro và tính ảnh hưởng của TCTD trong toàn hệ thống, cơ quan thanh tra, giám sát sẽ lập ra kế hoạch thanh tra và phạm vi thanh tra khác nhau cho từng TCTD. Điều này giúp cơ quan thanh tra, giám sát cân đối được nguồn lực và tiến hành tập trung vào những rủi ro quan trọng cho từng TCTD và toàn hệ thống.
1.1.3.2. Đối với hoạt động của các tổ chức tín dụng
Khi cơ quan quản lý thực hiện phương pháp thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro sẽ có những thay đổi căn bản về nhận thức và vận hành tại các TCTD, đặc biệt là về hệ thống quản trị rủi ro. Khi cơ quan quản lý áp dụng thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro sẽ là một động lực vô cùng lớn hay nói đúng hơn là một áp lực tích cực thúc đẩy các TCTD hướng đến các chuẩn mực về quản trị rủi ro và vai trò giám sát của Hội đồng quản trị/Ban Điều hành, bởi khi áp dụng thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro, cơ quan quản lý sẽ xếp hạng chất lượng công tác quản trị của TCTD trong quá trình thanh tra, giám sát.
Khuyến khích đẩy nhanh quá trình tập trung hóa hoạt động quản lý rủi ro của TCTD do thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro đánh giá chất lượng quản lý toàn diện của TCTD đối với bản thân TCTD và các đơn vị trực thuộc TCTD. Điều này dựa trên nguyên tắc cơ bản là TCTD phải đảm bảo đủ vốn bù đắp cho các loại rủi ro khác nhau không chỉ cho bản thân TCTD mà phải tính đến rủi ro tại các công ty con, đơn vị thành viên. Như vậy, cách thực hiện thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro sẽ góp phần tích cực nâng cao chất lượng quản lý rủi ro của TCTD theo hướng tập trung hóa.
Đảm bảo sự minh bạch và khuyến khích trao đổi thông tin giữa cơ quan quản lý và TCTD. Sự minh bạch được đảm bảo thông qua việc công khai cách thức thực hiện thanh tra, giám sát (Sổ tay hướng dẫn thanh tra, cách thức xếp hạng, đánh giá các TCTD, chất lượng hội đồng quản trị, hệ thống quản lý rủi ro, kiểm toán nội bộ, các biện pháp can thiệp tương ứng theo kết quả xếp hạng…). Ngoài ra, dù đứng trên góc độ của cơ quan quản lý hay TCTD, để hoạt động an toàn và hiệu quả, trước hết phải xác định rõ các hoạt động kinh doanh quan trọng và tập trung nguồn lực kiểm soát rủi ro phát sinh từ các hoạt động này. Tuy nhiên, mức độ quan trọng của một hoạt động sẽ có thể được đánh giá theo mức độ khác nhau do cơ quan quản lý thường quan tâm nhiều hơn đến những hoạt động ảnh hưởng lớn đến an toàn của TCTD còn TCTD lại quan tâm đến những hoạt động tạo ra nhiều lợi nhuận. Điều này, dẫn đến nhu cầu phải đối thoại trao đổi thường xuyên giữa 2 bên và đem lại lợi ích cho cả 2 bên, cơ quan quản lý sẽ nắm rõ hơn về tình hình hoạt động của TCTD còn TCTD sẽ hiểu rõ hơn kỳ vọng và các yêu cầu cụ thể từ phía cơ quan quản lý.
Thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro khuyến khích các đối tượng thanh tra, giám sát thường xuyên tự đánh giá tình hình của họ. Bởi quá trình tự đánh giá giúp các TCTD nhìn nhận được chiều hướng rủi ro đối với các hoạt động kinh doanh quan trọng; qua đó đưa ra các giải pháp về quản trị rủi ro nhằm đảm bảo việc giảm thiểu rủi ro một cách hiệu quả nhất trong tương lai; cải thiện hồ sơ rủi ro của chính mình trong mắt cơ quan quản lý; góp phần duy trì tốt việc đảm bảo các tỷ lệ an toàn và năng lực tài chính của chính bản thân TCTD.
1.2. HOẠT ĐỘNG THANH TRA, GIÁM SÁT TRÊN CƠ SỞ RỦI RO CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG ĐỐI VỚI TỔ CHỨC TÍN DỤNG
1.2.1. Các điều kiện căn bản để triển khai thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro của Ngân hàng Trung ương đối với các tổ chức tín dụng
1.2.1.1. Cần có một khuôn khổ pháp lý đầy đủ, đồng bộ, phù hợp
Hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng đòi hỏi phải có một cơ cấu tổ chức bộ máy hợp lý với sự tham gia của nhiều chủ thể, liên quan đến quyền và nghĩa vụ của
các bên liên quan, cùng các quy trình được chuẩn hóa. Vì vậy, để triển khai thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro, việc phải có một khuôn khổ pháp lý đầy đủ, đồng bộ, phù hợp với đặc điểm của hệ thống chính trị, hệ thống giám sát tài chính và đặc điểm của hoạt động thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro, làm cơ sở để các bên liên quan tuân thủ trong quá trình thực hiện là yêu cầu bắt buộc.
1.2.1.2. Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng có cơ cấu tổ chức bộ máy hợp lý
Các quốc gia khác nhau có thể áp dụng mô hình giám sát tài chính khác nhau, theo đó, cơ quan thực hiện thanh tra, giám sát các TCTD cũng có những đặc trưng khác nhau. Tuy nhiên, dù là mô hình giám sát nào, cơ quan thực hiện chức năng thanh tra, giám sát cũng phải thiết lập cơ cấu tổ chức bộ máy hợp lý để vận hành trôi chảy, hiệu quả nội dung, quy trình thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro. Mô hình phổ biến của các cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng, tài chính thế giới thường áp dụng gồm 4 khâu: cấp phép; ban hành cơ chế, chính sách; tổ chức thanh tra, giám sát (giám sát từ xa, thanh tra tại chỗ); xử phạt, thu hồi giấy phép.
Một cơ cấu tổ chức bộ máy hợp lý là cơ cấu mà ở đó phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng đơn vị gắn với 4 khâu của quá trình thực hiện thanh tra, giám sát; đồng thời đảm bảo được sự phối hợp, chia sẻ thông tin hiệu quả giữa các đơn vị, bộ phận này.
1.2.1.3. Cần hoàn thiện và xây dựng một đội ngũ thanh tra, giám sát viên đủ năng lực, trình độ
Khi triển khai thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro, chất lượng thanh tra, giám sát phụ thuộc rất nhiều vào sự am hiểu, sự nhìn nhận, đánh giá của các thanh tra viên, giám sát viên về rủi ro của từng hoạt động nghiệp vụ cũng như rủi ro tổng thể của TCTD (đối với thanh tra tại chỗ và giám sát vi mô) hay toàn hệ thống (đối với giám sát vĩ mô), đặc biệt, đối với các chỉ số/chỉ tiêu định tính như chất lượng quản trị điều hành của Hội đồng quản trị/các vị trí quản lý cấp cao; tính đầy đủ của các chính sách, quy trình, thủ tục; tính đầy đủ của hệ thống quản lý; chất lượng hoạt động của kiểm soát nội bộ từ đó xếp hạng và lập hồ sơ rủi ro của TCTD... Điều này đòi hỏi thanh tra viên, giám sát viên phải nắm chắc các quy định của pháp luật, quy trình thanh tra, giám sát, am hiểu tường tận về thực trạng của TCTD, để từ đó có những nhận định, đánh giá chuẩn xác. Nói cách khác, đội ngũ thanh tra, giám sát viên phải có năng lực, trình độ chuyên môn đáp ứng yêu cầu của hoạt động thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro.
Ngoài ra, trong quá trình triển khai thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro, các thanh tra viên, giám sát viên được sự trợ giúp của phần mềm công nghệ thông tin, sử dụng các mô hình, công cụ định lượng. Điều này, đòi hỏi thanh tra viên, giám sát viên phải có am hiểu trong việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động chuyên môn.
Như vậy, để có thể thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro, tất yếu phải có một đội ngũ thanh tra, giám sát viên có năng lực về chuyên môn nghiệp vụ và có khả năng ứng dụng công nghệ thông tin trong quá trình tác nghiệp.
1.2.1.4. Cần phải có nguồn cơ sở dữ liệu đủ độ tin cậy và hệ thống công nghệ thông tin đáp ứng được yêu cầu quản lý, đặc biệt là công tác quản trị rủi ro
Bước đầu tiên của quy trình thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro là xây dựng hồ sơ tổ chức mà “đầu ra” của bước này là báo cáo tóm tắt đánh giá rủi ro của tổ chức, nhấn mạnh những vấn đề liên quan đến giám sát cần quan tâm, và tùy quốc gia có thể bao gồm ma trận rủi ro – là một bảng trình bày về số lượng rủi ro, chất lượng của quản lý rủi ro và xử lý rủi ro của tổ chức. Theo đó, để có một hồ sơ tổ chức chất lượng, tất yếu cần phải có một nguồn cơ sở dữ liệu đủ độ tin cậy. Cơ sở dữ liệu phải được chuẩn hóa bởi các quy định của cơ quan quản lý về các tiêu chí/chỉ tiêu, về thời gian, thời điểm báo cáo, về hệ thống thu thập, xử l ý và lưu trữ dữ liệu để đảm bảo tính đồng bộ, chính xác, cập nhật và an toàn của thông tin. Trong giám sát vĩ mô, nguồn thông tin dữ liệu đầy đủ, chính xác và cập nhật, đủ “độ rộng” và “độ sâu” là cơ sở để đưa ra các cảnh báo sớm giảm thiểu rủi ro cho hệ thống.
Việc áp dụng phương pháp thủ công không thể đảm bảo có một nguồn cơ sở dữ liệu đầy đủ, chính xác, cập nhật. Các hoạt động tác nghiệp về quản trị rủi ro của thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro cần phải được sự hỗ trợ của hệ thống công nghệ thông tin. Hệ thống công nghệ thông tin phải đáp ứng được quy mô, mức độ phức tạp trong hoạt động và quản lý, đảm bảo an toàn, bảo mật.
1.2.1.5. Tổ chức tín dụng phải có khả năng quản trị trên cơ sở rủi ro
Để triển khai phương pháp thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro, bản thân TCTD phải am hiểu về rủi ro – là sự tồn tại cố hữu cùng với hoạt động của các TCTD và phải nhận dạng, đo lường, đánh giá được rủi ro, từ đó, theo dõi và giám sát rủi ro.
Khi đã đo lường, đánh giá được rủi ro, TCTD có trách nhiệm theo dõi và kiểm soát rủi ro. Nghĩa là sử dụng các biện pháp, kỹ thuật, công cụ, chiến lược, các chương trình hành động... để ngăn ngừa, né tránh hoặc giảm thiểu các tổn thất, những ảnh hưởng không mong đợi.
Theo thông lệ quốc tế, để nhận dạng, đo lường, giám sát và xử lý tốt các loại rủi ro, TCTD phải có một hệ thống quản trị rủi ro hiệu quả được thể hiện qua bốn nội dung cơ bản: (1) Giám sát và quản trị rủi ro tích cực, hiệu quả của Hội đồng quản trị (HĐQT)/Hội đồng thành viên (HĐTV). Trong đó, nhấn mạnh các thành
phần chủ chốt của quản trị rủi ro như văn hóa rủi ro, khẩu vị rủi ro và mối quan hệ giữa chúng với năng lực quản trị rủi ro của TCTD. Đồng thời, xác định rõ trách nhiệm của các bộ phận trong TCTD để xử lý và quản lý rủi ro, theo nguyên tắc độc lập 3 chức năng: chức năng kinh doanh, chức năng quản lý rủi ro và chức năng đánh giá độc lập; (2) Hệ thống chính sách, quy định nội bộ được xây dựng đầy đủ và phù hợp với pháp luật hiện hành và đặc thù của TCTD; (3) Bộ phận kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ hoạt động hiệu quả; (4) Hệ thống công nghệ tin đáp ứng yêu cầu quản lý và quản trị rủi ro (Nguyễn Thị Thu Hương, 2014).
1.2.2. Nội dung thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro
Thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro đối với TCTD tập trung vào việc xác định những lỗ hổng hệ thống và các hoạt động quản lý yếu kém tại TCTD nhằm đánh giá chính xác về mức độ rủi ro, chất lượng của các hệ thống quản lý rủi ro, trên cơ sở đó đưa ra các biện pháp can thiệp kịp thời. Phương pháp này có những điểm khác biệt cơ bản so với phương pháp thanh tra, giám sát truyền thống, cụ thể như:
Bảng 1.1: Phân biệt phương pháp thanh tra, giám sát tuân thủ với phương pháp thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro
Thanh tra, giám sát dựa trên cơ sở rủi ro | |
Tập trung chủ yếu vào việc tuân thủ các quy định của pháp luật. | Đánh giá tất cả những lĩnh vực rủi ro bao gồm cả việc tuân thủ các quy định của pháp luật. |
Tập trung vào tình hình quá khứ và hiện tại của đối tượng giám sát ngân hàng (tác động lẫn nhau). | Tập trung vào tình hình hoạt động trong quá khứ (kể từ cuộc kiểm tra trước), những xu hướng hiện tại và trong tương lai (chủ động). |
Tất cả các đối tượng giám sát ngân hàng được giám sát giống nhau. | Cán bộ giám sát có thể thực hiện các nội dung mở rộng đối với các TCTD có mức độ rủi ro cao hoặc thu hẹp phạm vi giám sát đối với TCTD ít rủi ro. |
Tần suất thanh tra thường là định kỳ đối với tất cả các đối tượng. | Chu kỳ thanh tra (thời gian giữa các cuộc thanh tra) có thể gia tăng hoặc giảm bớt tùy theo hồ sơ rủi ro của TCTD. |
Sử dụng không hiệu quả các nguồn lực giám sát do được phân bổ cho tất cả các TCTD mà không quan tâm đến mức độ rủi ro. | Các nguồn lực giám sát được sử dụng hiệu quả hơn bằng cách bố trí nguồn lực tập trung vào những lĩnh vực có nhiều rủi ro. |
Có thể bạn quan tâm!
- Thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các tổ chức tín dụng - thực trạng và giải pháp - 2
- Hiệu Quả Của Thanh Tra, Giám Sát Trên Cơ Sở Rủi Ro
- Khái Quát Về Hoạt Động Thanh Tra, Giám Sát Của Ngân Hàng Trung Ương Đối Với Các Tổ Chức Tín Dụng
- Các Mô Hình Phân Tích Nhóm Đồng Hạng Và Chỉ Số Tài Chính
- Kinh Nghiệm Về Thanh Tra, Giám Sát Trên Cơ Sở Rủi Ro Đối Với Các Tổ Chức Tín Dụng Của Một Số Quốc Gia
- Khuôn Khổ Pháp Lý Cho Hoạt Động Thanh Tra, Giám Sát Các Tổ Chức Tín Dụng
Xem toàn bộ 240 trang tài liệu này.
Nguồn: Tổng hợp của Nghiên cứu sinh
1.2.2.1. Nội dung thanh tra trên cơ sở rủi ro
Kế hoạch thanh tra được xây dựng trên cơ sở kết quả giám sát, trọng tâm là các hoạt động/nghiệp vụ rủi ro cao. Bao gồm từ công tác quản trị điều hành, cơ cấu tổ chức bộ máy; quy trình, chính sách nội bộ; công tác kiểm soát, kiểm toán nội bộ; hệ thống thông tin quản lý... đến từng hoạt động nghiệp vụ chuyên môn. Trong đó các hoạt động trọng yếu cần tập trung như: cho vay tài trợ thương mại, cho vay tài trợ dự án, cho vay tiêu dùng, cho vay lĩnh vực bất động sản, chứng khoán, cho vay dự án BOT, BT, cho thuê tài chính, đầu tư chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu), hoạt động góp vốn, mua cổ phần, kinh doanh ngoại tệ, hoạt động huy động vốn, phát hành tín phiếu...
Từ đó, đưa ra báo cáo kết quả thanh tra, đánh giá các rủi ro trọng yếu, rủi ro tổng thể và đưa ra các kiến nghị, khuyến nghị trong đó bao gồm các khuyến nghị đối với việc hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp lý, các kiến nghị yêu cầu TCTD phải thực hiện, chỉnh sửa. Ngoài ra, nội dung thanh tra còn bao gồm việc xác định các hành vi vi phạm nếu có để đề xuất áp dụng hình thức, biện pháp xử lý, xử phạt theo quy định của pháp luật.
1.2.2.2. Nội dung giám sát trên cơ sở rủi ro
a) Nội dung giám sát vi mô:
(1) Lập hồ sơ rủi ro của từng TCTD: Theo đó, các cán bộ giám sát sẽ phân tích, đánh giá những loại rủi ro mà các TCTD có thể gặp phải theo các nội dung chi tiết sau:
(i) Rủi ro tín dụng: Đánh giá phân loại tài sản, phân loại nợ; sự đầy đủ dự phòng rủi ro nói chung và dự phòng rủi ro tín dụng nói riêng; các khoản cho vay nội bộ, cho vay công ty con, các khoản cho vay lớn, sự tập trung tín dụng vào một số ít khách hàng, ngành... Kiểm tra sự tuân thủ các quy định pháp luật (các quy định liên quan đến yêu cầu tối thiểu đối với hệ thống quản trị rủi ro tín dụng nội bộ, các quy định liên quan đến việc ban hành các quy định nội bộ về hoạt động tín dụng nói riêng và quản lý tài sản có nói chung…). Phương pháp này giúp cán bộ phân tích đưa ra được đánh giá tổng thể về chất lượng tín dụng nói riêng và chất lượng tài sản nói chung của đối tượng giám sát ngân hàng.
(ii) Rủi ro thị trường
- Rủi ro lãi suất: Đánh giá khe hở kỳ hạn của nợ phải trả và tài sản có nhạy cảm với lãi suất, các khoản mục ngoại bảng và tác động mà những thay đổi về lãi suất đến thu nhập ròng từ lãi và đến vốn của ngân hàng.
- Rủi ro ngoại hối: Đánh giá trạng thái mở ròng của những loại ngoại tệ của đối tượng giám sát ngân hàng, trên bảng cân đối hoặc ngoại bảng..
- Rủi ro về giá: Đánh giá ảnh hưởng về thu nhập và vốn của đối tượng giám sát
ngân hàng nếu được yêu cầu thanh lý tài sản hoặc nợ phải trả tại một thời điểm nào đó.
Kiểm tra tính tuân thủ pháp luật (các quy định liên quan đến yêu cầu tối thiểu đối với hệ thống quản trị rủi ro thị trường, các quy định liên quan đến việc ban hành các quy định nội bộ về quản trị rủi ro thị trường…)
(iii) Rủi ro thanh khoản: Đánh giá thanh khoản toàn diện của đối tượng giám sát ngân hàng thông qua khe hở kỳ hạn của tài sản và nợ phải trả, các chỉ số phản ánh mối quan hệ giữa hoạt động huy động vốn và sủ dụng vốn. Kiểm tra sự tuân thủ pháp luật (các quy định liên quan đến yêu cầu tối thiểu đối với hệ thống quản trị rủi ro thanh khoản, các quy định liên quan đến việc ban hành các quy định nội bộ về quản lý rủi ro thanh khoản…).
(iv) Rủi ro hoạt động: Đánh giá rủi ro hoạt động tổng thể của đối tượng giám sát ngân hàng đến một mức có thể, đánh giá báo cáo kết quả kinh doanh cho các khoản lỗ bất thường mà có thể là do thiếu các hoạt động lành mạnh hoặc kiểm soát nội bộ yếu kém. Kiểm tra tính tuân thủ pháp luật (các quy định liên quan đến yêu cầu tối thiểu đối với hệ thống quản trị rủi ro hoạt động, các quy định liên quan đến việc ban hành các quy định nội bộ về quản trị rủi ro hoạt động…).
(v) Rủi ro danh tiếng: Đánh giá thông tin công chúng hiện có về đối tượng giám sát ngân hàng (hình ảnh, thương hiệu, sản phẩm…), đánh giá khả năng xảy ra tổn thất về tài chính, danh tiếng bị tổn thương, hủy hoại khi đối tượng giám sát ngân hàng bị kiện tụng, vướng vào tranh chấp…
(vi) Rủi ro chiến lược: Đánh giá, phân tích sự phù hợp của chiến lược căn cứ vào các văn bản về chiến lược, kế hoạch, xác định những yếu kém tiềm tàng về chiến lược của đối tượng giám sát ngân hàng bằng cách đánh giá báo cáo cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh (lưu ý sự dịch chuyển tài sản hoặc nợ phải trả hoặc những tổn thất bất thường, lợi nhuận mà cho thấy mức độ rủi ro cao). Ngoài ra, cần tập trung đánh giá cách thức mà chiến lược, kế hoạch được thực hiện ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của đối tượng giám sát ngân hàng như thế nào. Việc đánh giá rủi ro chiến lược không thể tách rời việc phân tích diễn biến của các yếu tố bên ngoài, biến động của thị trường.
Kết quả phân tích, đánh giá rủi ro được thể hiện thông qua ma trận rủi ro (chi tiết nêu tại Phụ lục 2 – Ma trận rủi ro)
(2) Phân tích, đánh giá tình hình hoạt động của TCTD theo các nội dung sau:
- Tình hình bảo đảm an toàn và phát triển vốn chủ sở hữu (bao gồm cả tình hình cổ đông, cổ phần, cổ phiếu).
- Tình hình huy động vốn từ các đối tượng đáp ứng các điều kiện tham gia
giao dịch theo quy định pháp luật hiện hành bao gồm: cá nhân, tổ chức kinh tế, TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức khác.
- Tình hình sử dụng vốn; trong đó bao gồm: tình hình cấp tín dụng đối với các đối tượng đáp ứng các điều kiện tham gia giao dịch theo quy định pháp luật hiện hành bao gồm: cá nhân; tổ chức kinh tế; TCTD; tổ chức khác; tình hình đầu tư giấy tờ có giá; hoạt động sử dụng vốn khác.
- Tình hình nợ xấu và xử lý nợ xấu.
- Kết quả hoạt động kinh doanh (Khả năng sinh lời).
(3) Phân tích, đánh giá khả năng quản trị, điều hành của TCTD
Đánh giá, phân tích hoạt động quản trị ngân hàng trong đó tập trung vào phân tích, đánh giá năng lực của Hội đồng quản trị/Hội đồng thành viên và Ban điều hành (quản lý cấp cao) với vai trò phát hiện, đo lường, giám sát và kiểm soát rủi ro trong các hoạt động của đối tượng giám sát ngân hàng và đảm bảo ngân hàng hoạt động an toàn, lành mạnh và hiệu quả, tuân thủ pháp luật. Cụ thể, cán bộ giám sát cần đánh giá quản lý cấp cao trong việc thực hiện các yêu cầu như: (i) Đảm bảo hệ thống thông tin quản lý, kiểm soát nội bộ, quản lý rủi ro, kiểm toán nội bộ... được thực hiện hiệu quả; (ii) Nắm rõ trạng thái rủi ro và tình hình thực hiện chính sách quản lý rủi ro của đơn vị; (iii) Có các biện pháp ngăn ngừa, xử lý kịp thời các tổn thất để nâng cao hiệu quả, an toàn trong hoạt động của đơn vị...
(4) Dự báo tình hình tài chính của TCTD
Sự phát triển của khu vực ngân hàng và thị trường tài chính với hàng loạt các loại hình dịch vụ hiện đại kéo theo không ít những rủi ro tiềm ẩn. Theo đó, hoạt động giám sát phải đảm đương nhiệm vụ trong việc cảnh báo sớm và phòng ngừa rủi ro cho các TCTD. Thực tiễn công tác giám sát các TCTD cho thấy cần nắm bắt được thường xuyên thực trạng hoạt động của các TCTD, đặc biệt là tình hình tài chính tương lai, qua đó phát hiện những yếu tố dẫn đến rủi ro gây mất an toàn, xử lý kịp thời những vấn đề nghiêm trọng xảy ra.
Đơn vị thực hiện giám sát an toàn vi mô có thể dự báo tình hình tài chính của đối tượng giám sát ngân hàng bằng cách dự báo các khoản mục trong báo cáo tài chính, các tỷ lệ đảm bảo an toàn, dòng tiền trong tương lai của đơn vị trên cơ sở các giả định cho trước.
Căn cứ vào kết quả dự báo, đơn vị thực hiện giám sát an toàn vi mô kịp thời đề xuất các hành động can thiệp, chỉnh sửa tùy thuộc vào sự lành mạnh được dự báo của đối tượng giám sát ngân hàng (nếu ngân hàng được dự báo có vấn đề tiềm ẩn rủi ro, thì cảnh báo rủi ro; nếu ngân hàng được dự báo có khả năng gặp vấn đề về