Tạo nguồn cán bộ, công chức xã người dân tộc thiểu số ở các tỉnh Tây Nguyên giai đoạn hiện nay - 2


- Thời gian nghiên cứu từ khi có Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước ra đời đến nay, phương hướng, giải pháp đến năm 2020.

4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của Luận án

4.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn

* Cơ sở lý luận: Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về công tác cán bộ, công tác tạo nguồn cán bộ. Luận án kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đã được công bố.

* Cơ sở thực tiễn: Luận án được nghiên cứu từ thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung, công tác tạo nguồn CB, CC xã người DTTS ở các tỉnh Tây Nguyên nói riêng, được phản ánh trong các văn bản báo cáo, các bảng biểu thống kê lưu trữ của các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể và các cơ quan chức năng có liên quan, và kết quả điều tra, khảo sát trực tiếp.

4.2. Phương pháp nghiên cứu của Luận án

Luận án được nghiên cứu trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của các khoa học liên ngành và chuyên ngành, như: lôgic-lịch sử, phân tích-tổng hợp, hệ thống, thống kê-so sánh, điều tra, khảo sát, tổng kết thực tiễn, phỏng vấn chuyên gia.

5. Đóng góp mới về mặt khoa học của Luận án

- Làm rõ khái niệm, nội dung, phương thức tạo nguồn CB, CC xã người DTTS ở các tỉnh Tây Nguyên.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 203 trang tài liệu này.

- Kinh nghiệm và những vấn đề đặt ra trong tạo nguồn CB, CC xã là

người DTTS ở các tỉnh Tây Nguyên những năm vừa qua.

Tạo nguồn cán bộ, công chức xã người dân tộc thiểu số ở các tỉnh Tây Nguyên giai đoạn hiện nay - 2

- Đề xuất hai giải pháp có tính đặc thù, khả thi nhằm đẩy mạnh tạo nguồn CB, CC xã người DTTS ở các tỉnh Tây Nguyên đến năm 2020: Một là, củng cố, phát triển và giao trách nhiệm cụ thể cho hệ thống các trường dân tộc nội trú, các cơ sở giáo dục

- đào tạo trên địa bàn Tây Nguyên tham gia tạo nguồn CB, CC xã người DTTS. Hai là, xây dựng, củng cố và phát huy vai trò HTCT xã, lực lượng người có uy tín trong cộng đồng DTTS ở thôn, buôn trong tạo nguồn CB, CC xã người DTTS.


6. Ý nghĩa thực tiễn của Luận án

- Kết quả nghiên cứu của Luận án có thể được dùng làm tài liệu tham khảo, giúp các cấp ủy đảng đẩy mạnh công tác tạo nguồn CB, CC xã là người DTTS ở Tây Nguyên.

- Kết quả nghiên cứu của Luận án cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ hoạt động nghiên cứu, học tập môn Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong hệ thống Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh và các cơ sở đào tạo khác, đặc biệt là các trường chính trị tỉnh, các trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện ở Tây Nguyên.

7. Kết cấu của Luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình khoa học của tác giả liên quan đến đề tài, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của Luận án gồm Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài và 3 chương, 6 tiết.


TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI


Xây dựng đội ngũ cán bộ, trong đó có tạo nguồn cán bộ của đảng cộng sản là vấn đề đã được trình bày trong nhiều tác phẩm kinh điển của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh; bài viết của các lãnh tụ của Đảng, Nhà nước; công trình nghiên cứu của các nhà khoa học. Trong thời gian gần đây, có thể tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Luận án như sau:

I. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở VIỆT NAM

1.1. Những nghiên cứu liên quan đến công tác cán bộ và tạo nguồn

cán bộ nói chung

Công tác cán bộ là khâu then chốt trong toàn bộ hoạt động xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. Bài học mà V.I.Lênin từng tổng kết: “Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào nắm được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào” [82, tr.473] trở thành mối quan tâm hàng đầu của Đảng ta trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng. Khi Đảng ta tiến hành công cuộc đổi mới, đặc biệt là từ khi Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ra đời (1997) đến nay, nhiều công trình khoa học được triển khai, đề cập tổng thể những vấn đề lý luận và thực tiễn công tác cán bộ của Đảng.

Sách “Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị đổi mới” (1998) của PGS,TS Trần Xuân Sầm (chủ biên) và sách “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (2001) của Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm là hai công trình nghiên cứu lớn, xác định rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của chủ trương xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng ta trong thời kỳ mới, đặc biệt là những yêu cầu, đòi hỏi cụ thể về tiêu chuẩn cán bộ trong HTCT các cấp. Theo các tác giả, việc xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ phải xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và thế giới; phải căn cứ vào đường lối cán bộ của Đảng đã


được kiểm nghiệm từ cuộc sống; khai thác những nhân tố hợp lý về tiêu chuẩn quan chức trong các vương triều phong kiến và chú ý đến đặc trưng của con người Việt Nam truyền thống, đồng thời tham khảo kinh nghiệm và thành tựu khoa học quản lý của các nước. Đây là những quan điểm rất đổi mới về công tác cán bộ của Đảng, Luận án có thể kế thừa và vận dụng vào việc luận bàn về mục tiêu tạo nguồn và đổi mới việc xây dựng tiêu chuẩn nguồn CB, CC xã người DTTS phù hợp với điều kiện và xu thế phát triển của vùng Tây Nguyên.

Nhiều công trình khác như: Đề tài khoa học cấp Nhà nước KX.04.09 “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân” (2002-2004) của Bộ Nội vụ; sách “Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (2007) của Vũ Văn Hiền (chủ biên), Trần Quang Nhiếp, Lê Đức Bình…; sách “Cơ sở lý luận thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức” (2011) của TS Thang Văn Phúc và TS Nguyễn Minh Phương đồng chủ biên (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội)... tiếp tục đưa ra nhiều luận cứ khoa học của việc xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, các ngành nước ta. Qua đó, nhiều vấn đề được khẳng định: về vị trí, vai trò nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng của cán bộ và công tác cán bộ; về yêu cầu đức - tài, phẩm chất - năng lực của tiêu chuẩn cán bộ đặt trong trong quan hệ với nhiệm vụ chính trị, với xu thế của thời đại; về trách nhiệm của các cấp chủ thể, nhất là cấp ủy và người đứng đầu cấp ủy, HTCT; về quan điểm, mục tiêu, phương hướng, giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH. Luận án có thể kế thừa các kết quả nghiên cứu trên để vận dụng vào việc làm rõ vai trò của đội ngũ CB, CC và những yêu cầu đặt ra trong tạo nguồn CB, CC xã người DTTS ở Tây Nguyên.

Bài viết “Công tác cán bộ và việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của Đảng” (2004) của Vũ Văn Hiền và Tạ Xuân Đại (Hội thảo lý luận giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc: Xây dựng đảng cầm quyền - kinh nghiệm của Việt Nam, kinh nghiệm của Trung Quốc) khẳng định công tác cán bộ của Đảng ta là vấn đề then chốt của nhiệm vụ then chốt; xây dựng đội


ngũ cán bộ chủ chốt là điều cốt lõi của vấn đề then chốt, vì vậy cần chuẩn bị chiến lược cán bộ, với nội dung quan trọng là tạo nguồn, xây dựng quy hoạch và chăm lo bồi dưỡng, đào tạo, giáo dục cán bộ.

Đối với hai khâu quan trọng của công tác cán bộ là đào tạo và luân chuyển, có các công trình: Đề tài khoa học cấp Bộ (1998-1999) “Những căn cứ lý luận và thực tiễn xác định nội dung, chương trình đào tạo cán bộ chủ chốt cơ sở miền núi đáp ứng yêu cầu của cách mạng trong giai đoạn hiện nay” do TS Trần Ngọc Uẩn (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh) làm chủ nhiệm, nhấn mạnh việc xây dựng một chương trình phù hợp phải được coi là nội dung cốt lõi trong công tác đào tạo cán bộ. Đề tài độc lập cấp Nhà nước (2002)-07 "Cơ sở lý luận và thực tiễn đánh giá, luân chuyển cán bộ lãnh đạo quản lý trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đạ hóa đất nước", chủ nhiệm PGS, TS Trần Đình Hoan lần đầu tiên bàn về công tác luân chuyển với tư cách là khâu góp phần đào tạo cán bộ qua thực tiễn. Luân chuyển gắn liền với quy hoạch, và có thể theo 3 hướng: luân chuyển ngang, trên xuống, dưới lên. Vai trò, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức nơi đi và nơi đến của cán bộ luân chuyển đều được nhấn mạnh. Những vấn đề liên quan đến chế độ chính sách hỗ trợ đời sống, điều kiện, phương tiện để hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ cũng là nội dung được tổng kết và đề xuất trong Đề tài. Những kết quả nghiên cứu của đề tài có thể giúp Luận án hoàn thiện hơn trong giải pháp đổi mới nội dung tạo nguồn CB, CC xã, phần đổi mới công tác luân chuyển tạo nguồn.

Tạo nguồn cán bộ nằm trong phạm vi công tác cán bộ, nên có khá nhiều công trình nghiên cứu bàn về nó, sử dụng thuật ngữ “tạo nguồn” trong tên công trình, hoặc phạm vi rộng hơn là “xây dựng đội ngũ cán bộ”, trong đó có cán bộ người DTTS, nhưng nhìn chung nội hàm khái niệm “tạo nguồn” chưa được minh định. Tuyệt đại bộ phận các bài báo khoa học hiện nay đều xuất phát từ quan niệm tạo nguồn cán bộ tập trung ở quy hoạch và đào tạo, bồi dưỡng nguồn, nên thực trạng và giải pháp cho tạo nguồn cũng hướng chủ yếu về nâng cao chất lượng quy hoạch và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Tiêu biểu có: bài viết “Bộ đội Biên phòng với việc tạo nguồn cán bộ dân tộc thiểu số” của Thiếu tướng Võ


Trọng Việt (Tạp chí Xây dựng Đảng điện tử, 15-2-2007); “Tạo nguồn cán bộ từ đồng bào dân tộc thiểu số” của Nguyễn Văn Bình (Webside Quảng Nam online, 5-10-2009); “Nét mới trong tạo nguồn bí thư, chủ tịch xã phường ở Đồng Nai” của Thủy Anh (Tạp chí Xây dựng Đảng, tháng 9-2009); “Hải Phòng tạo nguồn cán bộ lãnh đạo trẻ” của Lê Xuân Lịch (Tạp chí Xây dựng Đảng, tháng 1-2010); “Tạo nguồn lãnh đạo phường, xã ở Đà Nẵng” của Bùi Văn Tiếng (Tạp chí Xây dựng Đảng, tháng 4/2010) v.v.. Tuy còn hạn hẹp trong quan niệm và giải pháp tạo nguồn, nhưng giá trị của các bài viết cho thấy bức tranh khá đa dạng về thực trạng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nguồn, cùng những mô hình, kinh nghiệm hay, có thể dùng làm cơ sở để xác định những nội dung trọng tâm, những vấn đề đặt ra trong công tác tạo nguồn cán bộ trên bình diện chung và cho đề tài Luận án nói riêng.

Bên cạnh đó, một số đề tài khoa học, luận văn, luận án gần đây mở rộng được phạm vi hoặc đi sâu vào một số nội dung tạo nguồn cán bộ cụ thể:

Tại Hội thảo khoa học “Một số vấn đề về công tác quy hoạch cán bộ” (1998) thuộc Chương trình khoa học xã hội cấp nhà nước KHXH.05, TS Đỗ Xuân Định có bài “Vấn đề tạo nguồn trong quy hoạch cán bộ” bàn về hai cách tạo nguồn: từ xa và trực tiếp. Theo tác giả, phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo, nâng cao dân trí là cách tạo nguồn từ xa, còn việc đưa cán bộ vào hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của quần chúng để giáo dục, rèn luyện, đào tạo, sàng lọc là cách tạo nguồn trực tiếp từng loại cán bộ. Thực chất của tạo nguồn trực tiếp là “sự tiếp tục đào tạo trong thực tiễn”, là “sự đào tạo trong quá trình sử dụng”, vì vậy cần sử dụng đúng chuyên ngành đào tạo, bố trí công việc thích hợp, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Trong tạo nguồn, không chỉ đòi hỏi cao về đạo đức, năng lực công tác cán bộ, mà phải chú ý đến chính sách đãi ngộ, khuyến khích lợi ích vật chất, bởi nó “như là một tất yếu đi đôi với những giá trị tinh thần và việc bồi dưỡng lý tưởng cách mạng”. Những tiếp cận mang tính khái quát này là gợi mở quan trọng cho việc xây dựng bộ khung lý thuyết về nội dung tạo nguồn của Luận án.

Đề tài khoa học cấp Bộ (2005) “Tạo nguồn cán bộ hệ thống chính trị cơ sở ở

các tỉnh Tây Bắc nước ta hiện nay” do TS Đoàn Minh Huấn làm chủ nhiệm, đưa ra


các khái niệm và cách tiếp cận vấn đề tạo nguồn cán bộ chủ chốt, phân tích đánh giá thực trạng công tác tạo nguồn cán bộ chủ chốt cho HTCT cấp xã các tỉnh Tây Bắc nước ta những năm qua. Đề tài cũng tìm hiểu kinh nghiệm thực tiễn trong việc tạo nguồn cán bộ chủ chốt của HTCT cơ sở ở các tỉnh Tây Bắc qua việc nghiên cứu hoạt động này ở một số trường chính trị trong khu vực, đề xuất những giải pháp đẩy mạnh công tác tạo nguồn cán bộ HTCT cơ sở các tỉnh Tây Bắc trong thời gian tới.

Đề tài khoa học “Vấn đề tạo nguồn cán bộ các xã vùng sâu, vùng xa đặc biệt khó khăn - thực trạng và giải pháp” (Mã số KHBD (2009) - 51) của ThS Trần Thị Hương đưa ra khái niệm “Tạo nguồn cán bộ cơ sở cấp xã vùng cao, vùng xa đặc biệt khó khăn là quá trình phát hiện, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng những người công tác tại cơ sở xã, thôn bản thuộc khu vực này, hoặc có thể là học sinh, sinh viên, để giúp họ có đủ các điều kiện tiêu chuẩn của cán bộ cơ sở”. Khái niệm cho thấy: đối tượng tạo nguồn là người đang công tác tại chỗ, hoặc học sinh, sinh viên; nội dung tạo nguồn là phát hiện, quy hoạch, đào tạo và bồi dưỡng đối tượng; mục tiêu tạo nguồn là giúp đối tượng có đủ điều kiện tiêu chuẩn của cán bộ cơ sở. Có thể đánh giá: với mục tiêu nói trên, thì nội dung tạo nguồn mà tác giả đề cập chưa thể đáp ứng, bởi sau khi phát hiện và quy hoạch, chỉ bằng công tác đào tạo, bồi dưỡng thì sẽ không đủ để chuẩn hóa nguồn theo tiêu chuẩn cán bộ cơ sở.

Luận văn thạc sĩ Xây dựng Đảng “Tạo nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện ở tỉnh Bạc Liêu hiện nay” (2010) của Trần Hoàng Khải đưa ra được một số quan niệm mới về nguồn và tạo nguồn cán bộ. Tác giả phân biệt 4 loại nguồn: Nguồn kế cận (đã được quy hoạch, đang trực tiếp tham mưu, giúp việc cho cán bộ đương chức giữ chức danh mình được quy hoạch và sẵn sàng cho việc thay thế ngay chức danh đó khi có nhu cầu sử dụng cán bộ). Nguồn dự bị dài hạn (là những CB, CC đã được quy hoạch và đang trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng). Nguồn cán bộ hoạt động thực tiễn (trong phong trào quần chúng) và Nguồn học sinh, sinh viên (trong các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và trung học phổ thông). Từ quan niệm về nguồn nói trên, tác giả cho rằng “Tạo nguồn là hoạt động tích cực, tự giác, chủ động của các chủ thể để hình thành nguồn”; “Tạo nguồn cán


bộ lãnh đạo, quản lý là tổng thể những chủ trương, biện pháp, cách thức của hệ thống chính trị, các tổ chức, các lực lượng và toàn thể xã hội mà trực tiếp là tổ chức đảng các cấp trong việc chuẩn bị nguồn cán bộ có số lượng dồi dào, cơ cấu phù hợp và có chất lượng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị sẵn sàng thay thế vào các chức danh lãnh đạo, quản lý”. Nội dung tạo nguồn bao gồm: phát hiện, lựa chọn đối tượng; đánh giá đối tượng; quy hoạch nguồn; đào tạo, bồi dưỡng; quản lý; bố trí, sử dụng nguồn. Đây là những nghiên cứu khung bước đầu, có nhiều nội dung đã được làm rõ. Tác giả bám sát các khâu của công tác cán bộ nói chung để xây dựng nội dung tạo nguồn. Tuy nhiên còn những khoảng trống trong các khâu đó. Ví dụ, việc xây dựng tiêu chuẩn nguồn (cơ cấu đội ngũ, phẩm chất cá nhân) để định hình mục tiêu tạo nguồn; hay xây dựng môi trường (phong trào hành động cách mạng, cơ chế chính sách…) để phát hiện, thu hút và thử thách, rèn luyện nguồn v.v.. khá quan trọng nhưng chưa được đề cập trong phần lý luận chung về tạo nguồn cán bộ. Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu nói trên, Luận án sẽ tiếp tục khảo sát thực tiễn ở Tây Nguyên và khảo cứu quan điểm của Đảng qua các giai đoạn lịch sử để xác định đầy đủ hơn các nội dung tạo nguồn cán bộ.

1.2. Những nghiên cứu liên quan đến cán bộ cấp xã, cán bộ dân tộc

thiểu số và tạo nguồn cán bộ dân tộc thiểu số

Xây dựng đội ngũ cán bộ của HTCT cấp xã là đối tượng nghiên cứu được nhiều nhà khoa học quan tâm, không chỉ bởi vai trò của HTCT cấp cơ sở, mà còn liên quan đến vai trò và thực tế việc xây dựng, phát huy vai trò đội ngũ cán bộ cơ sở, nhất là cán bộ chủ chốt ở đây. Nhiều sách, đề tài, luận án, luận văn, bài viết đã phân tích sâu sắc, trên từng góc độ tiếp cận thực trạng của HTCT cấp cơ sở, nhất là ở vùng nông thôn miền núi, vùng DTTS, với những khó khăn, vướng mắc về điều kiện kinh tế - xã hội, về đội ngũ CB, CC, với nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan, trong đó có 2 yếu tố quan trọng nhất: con người và cơ chế

- những điều kiện đảm bảo cho HTCT vững mạnh. Tiêu biểu như: sách: “Hệ thống chính trị cấp cơ sở và dân chủ hóa đời sống xã hội vùng nông thôn miền núi, vùng DTTS” của Nguyễn Quốc Phẩm chủ biên (Nxb Chính trị quốc gia, Hà

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 23/09/2022