Thực Trạng Công Tác Xây Dựng Đội Ngũ Cán Bộ Dân Tộc Thiểu Số Ở Các Tỉnh Tây Bắc Trước Năm 2006


thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia, Chương trình 135, các dự án quốc gia, các dự án sử dụng trái phiếu Chính phủ, công trái giáo dục, các hỗ trợ có mục tiêu khác và thông qua các dự án, chương trình trong chương trình hành động của Chính phủ. Nhiều dự án quốc gia được triển khai đã góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội các địa phương trong vùng.

Tuy nhiên, ở các địa phương Tây Bắc vẫn tồn tại nhiều vấn đề kinh tế - xã hội. Do vị trí xa trung tâm, không thuận lợi cho việc thu hút đầu tư phát triển, hầu hết các xã vẫn còn trong tình trạng đặc biệt khó khăn, thiếu các điều kiện phát triển, hạ tầng yếu kém. Chất lượng kết cấu hạ tầng mới chỉ đáp ứng ở mức tối thiểu nhu cầu sản xuất và cải thiện đời sống nhân dân. Trên địa bàn các tỉnh miền núi Tây Bắc vẫn có nhiều xã chưa có đường ô tô đến trung tâm, chưa có điện lưới, trạm xá,... Trình độ sản xuất ở các vùng dân tộc miền núi Tây Bắc còn rất lạc hậu, hạn chế các dịch vụ khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư chuyển giao kỹ thuật mới, năng suất lao động thấp. Việc chuyển dịch cơ cấu sản xuất chậm, kinh tế hàng hoá chưa phát triển, sản phẩm của nông dân sản xuất ra chưa có thị trường tiêu thụ ổn định, hiệu quả kinh tế thấp, hạn chế việc phát huy nội lực của đồng bào DTTS ở các địa phương. Tình hình kinh tế và đời sống của đồng bào hết sức khó khăn, tỷ lệ hộ đói nghèo vẫn còn rất cao.

Những khó khăn này đòi hỏi Đảng bộ các tỉnh khu vực Tây Bắc phải tiếp tục quan tâm hơn nữa và có hướng phát triển đồng bộ, toàn diện và hiệu quả tại vùng đồng bào DTTS. Chú trọng yếu tố con người, cụ thể và trực tiếp là đội ngũ cán bộ DTTS, các Đảng bộ tỉnh ở khu vực Tây Bắc cần tiếp tục nâng cao chất lượng công tác xây dựng, phát triển đội ngũ này đảm bảo những yêu cầu về số lượng và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức.

2.1.3.3. Đặc điểm dân tộc, dân cư

Vùng Tây Bắc là địa bàn sinh sống của 25 tộc người thuộc 3 trong tổng số 4 ngữ hệ ở Việt Nam. Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, các DTTS chiếm khoảng 73,03% tổng dân số vùng Tây Bắc [70, tr.84].

Các tỉnh miền núi Tây Bắc có mật độ dân cư rất thấp. Đồng bào DTTS sống rải rác, nên sự giao lưu giữa các dân tộc gặp rất nhiều khó khăn; sự nghiệp giáo dục, văn hoá, bảo vệ môi trường, sức khoẻ, nâng cao dân trí gặp


rất nhiều trở ngại. Trình độ dân trí thấp, cùng với một số hủ tục trong hôn nhân là những nguyên nhân chính đưa đến tình trạng dân số tăng nhanh . Điều này khiến cho đời sống nhân dân lại càng gặp nhiều khó khăn hơn. Cùng với những yếu tố đó là sự tác động của các phong tục tập quán, các thiết chế xã hội truyền thống của đồng bào DTTS rất đa dạng, có tác động lớn đến tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở, trong đó có công tác cán bộ. Đặc biệt, tại các vùng DTTS đang nổi lên nhiều vấn đề dân tộc, tôn giáo phức tạp mà các thế lực thù địch đang ra sức lợi dụng, khai thác để chống phá cách mạng nước ta.

Những yếu tố trên đây đã tác động, chi phối rất lớn đến công tác xây dựng đội ngũ cán bộ DTTS trong hệ thống chính trị của các Đảng bộ tỉnh khu vực Tây Bắc. Đòi hỏi các Đảng bộ tỉnh khu vực Tây Bắc cần phải nhận thức đúng đắn để có những chủ trương thiết thực nhằm xây dựng được một đội ngũ cán bộ là DTTS thực sự vững mạnh, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 200 trang tài liệu này.

2.1.4. Thực trạng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh Tây Bắc trước năm 2006

Trong những năm đổi mới, trên cơ sở những quan điểm, chủ trương của Đảng, công tác cán bộ các tỉnh miền núi nói chung, cán bộ DTTS nói riêng đã được coi trọng trên nhiều mặt. Nhiều địa phương đã xây dựng được chiến lược cán bộ, chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng, tăng cường cán bộ cho cơ sở. Nhờ vậy, chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở, trong đó có cán bộ DTTS ngày càng được nâng lên, đã cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được phân công.

Quá trình các Đảng bộ tỉnh khu vực miền núi Tây Bắc lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số từ năm 2006 đến năm 2016 - 6

Về trình độ lý luận chính trị, nhằm đáp ứng yêu cầu cán bộ trong những năm đầu thực hiện đường lối CNH, HĐH, số lượng cán bộ DTTS được đưa đi đào tạo, bồi dưỡng trình độ lý luận chính trị ở các trường Đảng, đoàn thể trung ương ngày càng nhiều. Tại các địa phương, các trường chính trị tỉnh, các trung tâm chính trị huyện đều ưu tiên mở lớp cho cán bộ DTTS cấp cơ sở. Nhờ vậy, trình độ lý luận chính trị của đội ngũ này ngày càng được nâng cao.

Về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, sinh sống và công tác ở địa bàn trọng yếu và nhạy cảm về chính trị, an ninh, quốc phòng, nên phần lớn cán bộ DTTS thuộc hệ thống chính trị cơ sở các tỉnh Tây Bắc được tổ chức


đảng và chính quyền các cấp chăm lo bồi dưỡng nên có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần cảnh giác cao trước những âm mưu thủ đoạn của kẻ thù, ít có những biểu hiện sa sút về phẩm chất chính trị. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ DTTS khu vực Tây Bắc có phẩm chất đạo đức tốt, trung thực, thẳng thắn đấu tranh với các biểu hiện tiêu cực; ít xảy ra các vụ việc tham ô, tham nhũng nghiêm trọng dẫn đến khiếu kiện phức tạp, kéo dài.

Tại tỉnh Lai Châu, nhờ thực hiện lồng ghép công tác đào tạo đội ngũ cán bộ xã trong các chương trình xóa đói giảm nghèo đã góp phần tiết kiệm nguồn vốn ngân sách và của địa phương.

Tỉnh Lào Cai là tỉnh đạt được nhiều thành công trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, đặc biệt cán bộ DTTS. Thực hiện Đề án: “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chủ chốt chính quyền cơ sở tỉnh Lào Cai giai đoạn 2001-2005”, đội ngũ cán bộ cơ sở đã từng bước nâng cao về năng lực, trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, kỹ năng quản lý điều hành ở cơ sở, góp phần to lớn cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh của tỉnh. Công tác tổ chức, cán bộ được xác định là khâu đột phá trong công tác xây dựng Đảng, với các giải pháp đồng bộ và quyết tâm cao nên đã giành được kết quả quan trọng. Công tác quy hoạch cán bộ được triển khai tích cực, dân chủ, thống nhất, đồng bộ các khâu: đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng và thực hiện chính sách cán bộ. Đã định rõ tiêu chuẩn cán bộ cho mỗi chức danh quy hoạch theo quy định của Trung ương và của tỉnh. Từng bước khắc phục được tình trạng bị động trong công tác cán bộ; đội ngũ cán bộ được trẻ hóa. Năm 2003, trong tổng số cán bộ chủ chốt ở cơ sở trong tỉnh đã được bố trí sử dụng thì số lượng cán bộ DTTS là

2.027 người, chiếm bằng 69,9% [24]. Năm 2004 so với năm 2000, tỷ lệ cán bộ DTTS ở các cơ quan cấp tỉnh tăng từ 14% lên 25,17%, cán bộ nữ tăng từ 11% lên 14%. Các bước chuẩn bị nguồn cán bộ cho nhiệm kỳ 2005-2010 được thực hiện nghiêm túc.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ cơ sở được quan tâm đúng mức, góp phần quan trọng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ các cấp. Trong nhiệm kỳ 2001-2005, toàn tỉnh đã đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị, văn hóa cho 122.490 lượt


cán bộ (trong đó, đào tạo 20.599, bồi dưỡng 101.891). Quá trình đào tạo đã gắn với công tác quy hoạch, đánh giá, bố trí và sử dụng cán bộ. Một số chế độ chính sách được ban hành đã có tác dụng khuyến khích, động viên cán bộ, nhất là cán bộ cơ sở, cán bộ DTTS, cán bộ nữ đi đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ [14, tr.12].

Tại tỉnh Yên Bái, sau 15 năm (từ năm 1991, thời điểm tỉnh Yên Bái được tách ra từ tỉnh Hoàng Liên Sơn, đến năm 2005), đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của tỉnh có nhiều thay đổi. Toàn tỉnh có 21.129 cán bộ, công chức, viên chức các cấp: Ở cấp tỉnh 6.096 người; cấp huyện, thị, thành phố 11.845 người; cấp cơ sở 3.188 người. Về chất lượng, trong tổng số 21.129, cán bộ, công chức, viên chức có trình độ chuyên môn đại học, cao đẳng chiếm 43,36%. Riêng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức là DTTS là 4.794 người, chiếm 22,6% tổng số cán bộ, công chức, viên chức toàn tỉnh [182, tr.2]. Ở cấp cơ sở, trong số 369 chủ tịch và phó chủ tịch mặt trận xã, phường, thị trấn thì có 209 người là DTTS (58,05%); 358 Bí thư, Phó Bí thư đoàn xã có 204 người là DTTS (56,98%) tương ứng chức danh đó với Hội Phụ nữ là 201/358 (56,14%); Hội Nông dân là 208/355 (58,59%); Hội Cựu chiến binh là 205/355 (57,74%) [19, tr.3].

Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, do nhiều nguyên nhân mà chất lượng đội ngũ cán bộ DTTS, đặc biệt là ở cấp cơ sở còn những hạn chế. Số lượng cán bộ DTTS trong hệ thống chính trị cơ sở các tỉnh khu vực Tây Bắc nhìn chung phát triển không đồng đều giữa các tỉnh, giữa các huyện trong tỉnh, các xã trong huyện và giữa các dân tộc với nhau.

Phần lớn cán bộ DTTS công tác ở cơ sở, số cán bộ là DTTS làm việc ở cấp huyện và cấp tỉnh mặc dù đã tăng so với giai đoạn trước nhưng còn chiếm tỷ lệ nhỏ. Tình trạng thiếu cán bộ cơ sở nghiêm trọng, đặc biệt là cán bộ khoa học kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ như cán bộ khuyến nông, khuyến lâm, giáo viên, cán bộ y tế, tài chính... còn xuất hiện ở nhiều địa phương.

Trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ và lý luận chính trị của đội ngũ cán bộ mặt trận và đoàn thể DTTS ở cơ sở nhìn chung còn rất hạn chế, chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ và còn ở khoảng cách khá xa so với tiêu chuẩn cán bộ công chức cơ sở mà Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung


ương 5 (Khoá IX) đã đề ra; cũng thấp hơn mặt bằng của đội ngũ cán bộ công chức ở cơ sở. Tình trạng nhiều đồng chí cán bộ chủ chốt cấp xã chỉ có trình độ tiểu học, nhiều cán bộ thôn, bản còn chưa đọc thông viết thạo đã gây ảnh hưởng lớn đến việc vận dụng, cụ thể hoá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và cấp trên. Đa số cán bộ cấp xã chưa được đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ. Số cán bộ cấp xã có trình độ đại học, trung cấp chiếm tỷ lệ thấp. Điều đáng lưu ý là, trong số cán bộ có trình độ đại học, cao đẳng, trung học, chiếm một tỷ lệ không nhỏ là đào tạo tại chức, đào tạo theo quy chế ưu đãi đối với khu vực miền núi. Bởi vậy, chất lượng trình độ trong thực tế còn hạn chế với bằng cấp, dẫn tới nhiều nơi có tỷ lệ cán bộ DTTS có trình độ chuyên môn khá cao nhưng hiệu quả công tác còn chưa đáp ứng yêu cầu.

Trình độ quản lý nhà nước tập trung ở cán bộ chính quyền nhưng số lượng cũng không lớn. Điều đáng quan tâm hơn là phần lớn cán bộ chính quyền cơ sở là DTTS rất hạn chế về kiến thức quản lý kinh tế, quản trị kinh doanh do chưa được đào tạo cơ bản. Đây là điểm yếu nhất của đội ngũ này trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường. Rất nhiều cơ sở xã vùng miền núi, DTTS được Nhà nước ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội nhưng do đội ngũ cán bộ yếu kém về trình độ, kinh nghiệm quản lý đã dẫn đến thất thoát lớn, không mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội thiết thực.

Về năng lực thực tiễn, hạn chế lớn nhất đối với đội ngũ cán bộ cơ sở vùng miền núi nói chung, cán bộ DTTS nói riêng là năng lực nắm bắt và cụ thể chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, chỉ thị, nghị quyết của cấp trên vào thực tiễn địa phương. Cùng với hạn chế đó là năng lực tổ chức thực tiễn, khả năng ra quyết định và xử lý các tình huống lãnh đạo, quản lý, năng lực kiểm tra, sơ kết, tổng kết thực tiễn. Do đó, nhiều chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên chưa đi vào thực tiễn cuộc sống, chưa mang lại hiệu quả.

Tại tỉnh Hoà Bình, trong số 287 đảng uỷ viên cơ sở ở huyện Mai Châu mới chỉ có 16,72% có trình độ cao đẳng, đại học, 45,9% có trình độ trung cấp, số còn lại chưa qua đào tạo (37,29%). Trong số 161 uỷ viên UBND xã ở huyện Kỳ Sơn, Hoà Bình, chỉ có 1 đồng chí có bằng đại học, 9 đồng chí có


trình độ trung cấp, còn lại là chưa qua đào tạo.

Ở tỉnh Lào Cai, gần 57% số cán bộ cấp xã mới có trình độ văn hoá cấp I. Một số cán bộ chủ chốt cấp xã ở vùng cao, vùng đặc biệt khó khăn mới chỉ biết đọc, biết viết.

Tại tỉnh Yên Bái, đến năm 2005, tỷ lệ đội ngũ cán bộ DTTS có trình độ chuyên môn đại học chiếm 0,54%, trung cấp 24,2%, sơ cấp và chưa qua đào tạo chiếm 75,2%; trình độ lý luận chính trị cao cấp chiếm 0,12%, trung cấp chiếm 39,1%, sơ cấp chiếm 20,1% [175, tr.2].

Đến trước năm 2006, nhận thức và thực tiễn chỉ đạo công tác xây dựng đội ngũ cán bộ DTTS của các Đảng bộ tỉnh khu vực Tây Bắc nhìn chung có sự chuyển biến. Số lượng cán bộ là DTTS ngày càng gia tăng với trình độ nghiệp vụ, kỹ năng quản lý và nhận thức chính trị ngày càng được củng cố. Nhưng do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, công tác này vẫn còn những hạn chế. Nhiều địa phương chưa xây dựng được chiến lược cán bộ và quy hoạch cán bộ dài hạn, chưa tạo được nguồn cán bộ DTTS dồi dào. Trong công tác cán bộ, nhiều địa phương thực hiện thiếu chặt chẽ, chưa đúng quy trình, thủ tục, nhất là trong bố trí sử dụng cán bộ, chưa bám chắc đặc điểm của vùng này để làm công tác cán bộ. Một số cán bộ làm công tác này năng lực, trình độ còn hạn chế, chưa nhận thức đầy đủ quan điểm của Đảng về công tác cán bộ. Chính sách cán bộ DTTS còn nhiều điểm bất cập, chưa kịp thời bổ sung, điều chỉnh. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ còn nhiều hạn chế. Điều kiện, phương tiện làm việc cho những người làm công tác cán bộ còn thiếu thốn, chính sách đãi ngộ chưa thoả đáng.

Thực trạng đội ngũ cán bộ DTTS và công tác xây dựng đội ngũ cán bộ DTTS trước năm 2006 đặt ra yêu cầu đối với các Đảng bộ tỉnh khu vực Tây Bắc cần nỗ lực hơn nữa để xây dựng đội ngũ cán bộ DTTS và sử dụng có hiệu quả hơn trong hệ thống chính trị của các tỉnh trong những năm 2006-2010.

2.1.5. Chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước về xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số những năm 2006-2010

Hội nghị lần thứ Chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X (tháng 1-2009) khi tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương Ba khóa VIII Về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất


nước đã quán triệt sâu sắc 6 quan điểm về xây dựng đội ngũ cán bộ, đồng thời xác định: “Mục tiêu cần đạt được là xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất và năng lực tốt, có cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ cán bộ, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới” [64, tr.271-273].

Trên cơ sở định hướng chung của Đảng, từ 2005 đến năm 2010, Chính phủ đã ban hành nhiều quyết định phê duyệt hàng loạt chính sách, được cụ thể hoá bằng các đề án về đào tạo cán bộ, công chức phục vụ xây dựng hệ thống chính trị cơ sở.

Liên quan trực tiếp tới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở khu vực Tây Bắc có Quyết định số 34/2006/QĐ-TTg ngày 08-02-2006 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn người dân tộc thiểu số giai đoạn 2006-2010. Mục tiêu cụ thể của Đề án nhằm đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ văn hoá, chuyên môn nghiệp vụ, quản lý hành chính nhà nước, lý luận chính trị cho cán bộ, công chức xã DTTS theo tiêu chuẩn chức danh đảm nhiệm, phấn đấu đến năm 2010: Về văn hoá: 100% cán bộ chuyên trách giữ chức vụ qua bầu cử có trình độ tốt nghiệp THCS trở lên, trong đó 60% tốt nghiệp THPT; Về chuyên môn nghiệp vụ: 100% cán bộ chuyên trách giữ chức vụ qua bầu cử và công chức chuyên môn được đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ theo chức danh quy định, trong đó 50% có trình độ trung cấp trở lên. Về lý luận chính trị: 100% cán bộ chuyên trách giữ chức vụ qua bầu cử và công chức chuyên môn được đào tạo, bồi dưỡng đạt trình độ sơ cấp trở lên, trong đó 40% có trình độ trung cấp. Về quản lý hành chính nhà nước: 100% cán bộ chủ chốt được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức quản lý hành chính nhà nước. Về tin học văn phòng: 100% cán bộ, công chức được bồi dưỡng kiến thức về tin học văn phòng [158, tr.65].

Ngày 28-2-2007, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 28/2007/QĐ-TTg Về việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã phường, thị trấn các tỉnh khu vực miền núi phía Bắc giai đoạn 2007-2010. Theo đó, mục tiêu chung của chương trình là đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ văn


hóa, kiến thức lý luận chính trị, chuyên môn, quản lý nhà nước, pháp luật, nghiệp vụ công tác đảng, MTTQ, đoàn thể, tin học văn phòng nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã của các tỉnh miền núi phía Bắc có phẩm chất chính trị vững vàng, có trình độ kiến thức đúng theo chức trách đảm nhiệm và năng lực thực hiện công vụ.

Trong xây dựng đội ngũ cán bộ DTTS, một trong những vấn đề quan trọng đó là công tác tạo nguồn, mà nội dung chính là chính sách giáo dục, đào tạo học sinh DTTS. Ở giai đoạn 2005-2010, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản, tiêu biểu là các Quyết định số 267/2005/QĐ-TTg ngày 31-10-2005 và Quyết định số 82/2006/QĐ-TTg ngày 14-4-2006 về chính sách và tổ chức dạy nghề đối với học sinh DTTS nội trú, điều chỉnh học bổng và trợ cấp xã hội đối với học sinh, sinh viên là DTTS học tại các trường đào tạo công lập. Đối tượng học sinh, sinh viên là người DTTS thuộc diện nghèo được vay để học tập theo Quyết định số 157/2007/QĐ-TTg ngày 29-7-2007 với nguồn vốn của chương trình đến năm 2013 khoảng 35.000 tỷ đồng. Đây là một con số đáng kể để hỗ trợ việc học tập của các sinh viên nghèo, sinh viên DTTS.

Trong chính sách giáo dục, đào tạo học sinh dân tộc, Chính phủ ban hành Nghị định số 134/2006-NĐ-CP ngày 14-11-2006 Quy định chế độ cử tuyển vào các cơ sở giáo dục trình độ đại học, cao đẳng, trung cấp thuộc hệ thống giáo dục quốc dân. Điều 5 của Nghị định đã xác định đối tượng cử tuyển với quy định ưu tiên đối với các đối tượng là người DTTS.

Tây Bắc là khu vực đặc thù, có nhiều ý nghĩa đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng. Đảng và Nhà nước có nhiều định hướng, chính sách riêng trong phát triển vùng. Trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, ngày 13-7-2007, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 106/2007/QĐ-TTg phê duyệt Đề án về Một số giải pháp tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng và tạo nguồn đội ngũ cán bộ hệ thống chính trị cơ sở vùng Tây Bắc giai đoạn 2007-2010. Mục tiêu chung nhằm góp phần thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị xã, phường, thị trấn trên địa bàn Tây Bắc. Theo đó, phấn đấu đến năm 2010 có: 80% cán bộ chuyên trách và công chức các xã vùng cao, biên giới và đặc biệt khó khăn

Xem tất cả 200 trang.

Ngày đăng: 03/04/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí