Với các DNXH là các tổ chức từ thiện, trong tương lai, để duy trì tính bền vững trong hoạt động sẽ có nhiều các cơ sở từ thiện có sự chuyển đổi về phương thức gây quỹ hoạt động, từ trỗ hoàn toàn phụ thuộc vào các khoản tài trợ và ngân sách do nhà nước cấp sang tự tiến hành các hoạt động kinh doanh, lấy thu bù chi như mô hình các hội từ thiện là DNXH ở Anh. Mặc dù pháp luật hiện hành đã cho phép các cơ sở từ thiện chuyển đổi sang hình thức DNXH, nhưng vẫn chưa có các quy định hướng dẫn cụ thể về cách thức tổ chức, hoạt động và sự trợ giúp của nhà nước để đảm bảo hoạt động của các cơ sở này không bị gián đoạn do sự chuyển đổi.
Thêm nữa, DNXH chịu ảnh hưởng rất lớn bởi xu hướng hoạt động xã hội của các cá nhân sáng lập, việc gò bó doanh nghiệp dưới hình thức công ty sẽ giảm tính linh hoạt và khả năng sáng tạo, khả năng nắm bắt các nhu cầu của cộng đồng của các doanh nhân tâm huyết với việc thực hiện các mục tiêu xã hội. Ngoài ra, việc bắt buộc phải thực hiện đăng ký hoạt động dưới các loại hình doanh nghiệp sẽ kéo theo một loạt vấn đề về cơ cấu tổ chức, nhân sự, bộ máy điều hành phức tạp theo đúng quy định của pháp luật và loại bỏ nhiều chủ thể thực hiện chức năng DNXH nhưng khó khăn để đăng ký được là một doanh nghiệp.
Có thể thấy LDN hiện hành đã đưa ra một số mô hình pháp lý phổ biến cho DNXH, tuy nhiên các mô hình này còn khá nghèo nàn và cứng nhắc, chưa phù hợp với một thực tế là Việt Nam – một nền kinh tế thị trường còn non trẻ, rất cần sự đóng góp của DNXH đến từ nhiều lĩnh vực và quy mô hoạt động khác nhau, để cùng tham gia chia sẻ gánh nặng an sinh xã hội với nhà nước. Những quy định hiện tại về DNXH chưa thực sự thúc đẩy quyền tự do kinh doanh; tự do lựa chọn mô hình kinh doanh khác nhau, hạn chế khả năng tiếp cận nhu cầu của các cộng đồng thiệt thòi, đối tượng hướng tới của DNXH và làm hạn chế các sáng kiến xã hội, giảm tính đa dạng về sở hữu, tính linh hoạt trong hoạt động của DNXH. Đồng thời với quy định chung về mô hình DNXH theo LDN hiện hành thì chưa có quy định mang tính chất riêng biệt về quản trị đối với DNXH mà về cơ bản vẫn sử dụng các quy định áp dụng cho các doanh nghiệp thông thường. Quản trị DNXH phải đáp ứng được các yêu cầu nhất định như Quy trình hỗ trợ, nhận viện trợ, tài trợ, quản lý nguồn tài trợ, công khai cam kết thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường của DNXH cho cơ quan đăng ký kinh doanh….
Đối với một số ngành nghề không mang lại giá trị kinh tế cao, lợi nhuận thu về thấp như vệ sinh môi trường, cấp thoát nước, vận tải hành khách công cộng… DNXH là phù hợp để sẻ chia gánh nặng với Nhà nước. tuy nhiên, pháp luật về DNXH hiện hành chỉ quy định thực hiện các mục tiêu về môi trường, xã hội như hỗ trợ đối tượng yêu thế, xử lý vấn đề ô nhiễm môi trường, đào tạo cho những người khuyết tật…
(ii) Hạn chế trong quy định phân phối lợi nhuận
Theo quy định tại Điều 10 LDN, DNXH trong suốt quá trình tồn tại và hoạt động luôn phải sử dụng tối thiểu 51% tổng lợi nhuận hàng năm để nhằm thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường như đã đăng ký. Tuy nhiên, trong thực tế, những năm đầu tiên khi thành lập, hoạt động, nhà đầu tư phải bỏ nhiều vốn đầu tư, cũng như chưa thể huy động tài trợ từ các nguồn lực khác, việc khởi sự kinh doanh còn nhiều khó khăn. Do đó, ngay từ đầu, lợi nhuận đã bắt buộc phải chia sẻ thì dẫn đến khó khăn cho sự phát triển của DNXH trong những năm đầu thành lập.
Mặt khác với tư cách là DNXH, các DNXH sẽ gặp nhiều khó khăn do phải thực thi các quy định chặt chẽ liên quan tới việc huy động, quản lý vốn tài trợ cho mục tiêu xã hội, gánh chịu thêm cơ chế kiểm tra giám sát, cơ chế thực hiện mục tiêu xã hội. Tất cả những điều này cho thấy khung pháp lý chặt chẽ phù hợp ở góc độ quản lý nhà nước, song có thể là rào cản đối với doanh nghiệp, buộc nhà đầu tư phải có những cân nhắc về lợi ích trước khi đăng ký thành lập DNXH
(iii) Hạn chế các ưu đãi về thuế
Vấn đề đặt ra là một DNXH hoạt động kinh doanh vẫn phải chịu thuế như doanh nghiệp bình thường, kể cả khi lợi nhuận của họ được tái phân phối hoàn toàn sang cho nhánh xã hội trong cùng tổ chức đó. Liệu có nên gây dựng các chính sách ưu đãi thuế cho hoạt động kinh doanh trong trường hợp này? Đây là một vấn đề gây tranh cãi nhưng việc giải quyết một cách minh bạch, thấu đáo là nhu cầu bức thiết của các DNXH. Hiện nay, Bộ Tài chính đã đề xuất bổ sung quy định ưu đãi thuế DNXH19, khi đề xuất này
được chấp thuận, nó sẽ tạo ra một số ưu đãi mới cho DNXH. Tuy nhiên, việc quy về ưu đãi như các lĩnh vực được đề cập ở phần Ưu đãi thuế vẫn chưa thực sự mang đến một ưu đãi tối ưu và cụ thể nhất cho DNXH.
Có thể bạn quan tâm!
- Pháp luật về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay - 14
- Các Vấn Đề Về Giải Thể Và Tổ Chức Lại Doanh Nghiệp Xã Hội
- Cơ Cấu Nguồn Vốn Vay Và Tài Trợ Của Các Dnxh Ở Việt Nam
- Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Doanh Nghiệp Xã Hội Ở Việt Nam Hiện Nay
- Pháp luật về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay - 19
- Nhóm Giải Pháp Về Nâng Cao Chất Lượng Thực Thi
Xem toàn bộ 187 trang tài liệu này.
Bên cạnh đó, hiện nay chưa có chế độ ưu đãi đối với phần lợi nhuận sử dụng tái đầu tư vào các mục tiêu xã hội cần thiết để được ưu đãi miễn thuế ... Có thể thấy các quy định và định hướng của nhà nước về việc miễn, giảm thuế cho DNXH cũng tương đối phức tạp và còn có nhiều sự thay đổi lớn để ưu ái loại doanh nghiệp có công lớn với xã hội này.
19 “Phần thu nhập không chia của cơ sở thực hiện xã hội hoá trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, y tế, lĩnh vực xã hội hoá khác và của DN xã hội để lại để đầu tư phát triển cơ sở đó theo quy định của luật chuyên ngành về lĩnh vực giáo dục - đào tạo, y tế, lĩnh vực xã hội hoá khác và DN xã hội; phần thu nhập hình thành tài sản không chia của hợp tác xã được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật hợp tác xã. Cơ sở thực hiện xã hội hoá, DN xã hội phải đáp ứng đồng thời 2 điều kiện: (i) Phần thu nhập không chia là lợi tức từ kinh doanh không chia theo quy định của luật chuyên ngành; (ii) Phần lợi tức từ kinh doanh khi chia không vượt quá lãi suất trái phiếu Chính phủ.”
(iv) Hạn chế đối với cơ quan thực hiện quản lý
Hiện tại, theo Nghị định 47/2021/NĐ-CP, DNXH thực hiện đăng ký doanh nghiệp theo trình tự, thủ tục và hồ sơ tương ứng với từng loại hình doanh nghiệp quy định tại luật DN, cụ thể là đăng kí tại Phòng đăng kí kinh doanh thuộc sở Kế hoạch và đầu tư cấp tỉnh nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính. Điểm khác biệt so với các doanh nghiệp thông thường là cùng với việc đăng kí doanh nghiệp, DNXH phải thông báo cam kết thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường cho cơ quan đăng kí kinh doanh để công khai trên cổng thông tin quốc gia về đăng kí doanh nghiệp. Mọi hoạt động khác DNXH cũng thực hiện như một doanh nghiệp thông thường. Nhưng, như đã nhiều lần đề cập, DNXH có những đặc thù riêng nên việc quản lí bởi cơ quan quản lý như các doanh nghiệp thông thường là chưa phù hợp, gây trở ngại cho cả phía cơ quan đăng kí và phía DNXH. Về phía cơ quan đăng kí, phần lớn cán bộ còn chưa hiểu biết nhiều về DNXH cũng như công việc của họ giải quyết còn mới chưa có nhiều kinh nghiệm và hướng dẫn cụ thể để thi hành, nên họ có xu hướng áp dụng pháp luật trên tinh thần của doanh nghiệp thông thường, gây bất lợi cho DNXH. Còn về phía DNXH, vốn đều có tâm lý e dè và không thoải mái với các thủ tục hành chính, nay số văn bản thủ tục còn nhiều hơn, nếu không có những cơ quan chuyên trách, tận tình tư vấn, thực hiện gọn nhẹ thì áp lực và thủ tục hành chính có thể là trở ngại lớn nhất để DNXH được hình thành và phát triển.
Tóm lại, việc LDN năm 2014 và Nghị định 96/2015/NĐ-CP ra đời đã bước đầu phá bỏ rào cản pháp lý cho hoạt động của DNXH tại Việt Nam; Đến LDN 2020 và Nghị định 47/2021/NĐ-CP đã thay thế nhưng không có nhiều quy định thay đổi dành cho DNXH. Vì thế, với hệ thống pháp lý được quy định như hiện tại, con đường phát triển cho DNXH sẽ khó để vươn xa, những thách thức về tài chính và nhận thức xã hội cũng là những rào cản to lớn đối với loại doanh nghiệp này. Hiện nay, xét về những tiêu chí để đầu tư, các DNXH trong nước luôn bị các nhà đầu tư có đánh giá không cao, cho dù mục đích chính là tác động đến xã hội và môi trường, nhưng các quỹ đầu tư vẫn có yêu cầu cơ bản về lợi nhuận, và đòi hỏi có được những ưu đãi cụ thể, rõ ràng với mô hình quản lý thuận lợi nhất. Do đó, để có thể phát triển DNXH, giải quyết các vấn đề xã hội tiến đến mục tiêu phát triển bền vững, Chính phủ, các cơ quan chức năng và ngay từ phía các DNXH cũng cần phải nhìn nhận rõ những hạn chế đang phải đối mặt, từ đó có những giải pháp phù hợp để một mặt phát triển ngay trong chính cơ chế của DNXH, một mặt thu hút, lôi kéo được thật nhiều các nhà đầu tư tiềm năng, đưa DNXH trở thành một loại hình phát triển vượt bậc, mang lại những tác động to lớn.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Sau khi nghiên cứu thực trạng pháp luật về DNXH ở Việt Nam, luận án đã làm rõ được các vấn đề liên quan đến khái niệm về DNXH, các vấn đề pháp lý về DNXH, qua đó nghiên cứu sinh đã đánh giá được thực trạng về thành lập, hình thức pháp lý dành cho DNXH, các vấn đề về hoạt động của DNXH và các vấn đề về giải thể và tổ chức lại DNXH. Từ đó có thể rút ra kết luận như sau:
- Về khái niệm DNXH: Có thể thấy rõ, LDN hiện hành không đưa ra định nghĩa về DNXH mà chỉ có các tiêu chí để xác định DNXH tại Điều 10. Với cách xác định như vậy đã loại trừ một số tổ chức khác như các quỹ, hội, hiệp hội…Như vậy, LDN hiện hành vẫn tạo ra khoảng cách giữa DNXH theo luật định và DNXH thực tế đang tồn tại trên thị trường. Ngoài ra, quy định về DNXH trong LDN và BLDS cũng có những mâu thuẫn cần sửa đổi, hoàn thiện
- Về thành lập DNXH: theo quy định của LDN, chủ doanh nghiệp có thể lựa chọn và đăng ký một trong các loại hình phù hợp với quy định của luật, bao gồm doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp nhà nước. Về thủ tục thành lập doanh nghiệp, chủ DNXH lựa chọn loại hình doanh nghiệp nào sẽ làm hồ sơ và thực hiện các thủ tục theo loại hình doanh nghiệp đó tại Cơ quan đăng ký kinh doanh cấp tỉnh nơi doanh nghiệp dự định đặt trụ sở chính. Trình tự, thủ tục đăng ký doanh nghiệp được quy định tại Điều 26 LDN 2020
- Về các vấn đề hoạt động của DNXH: hoạt động quản lý, điều hành của DNXH dựa trên cơ sở những quy định về quản lý, điều hành của các loại hình doanh nghiệp theo quy định của LDN hiện hành. Cụ thể DNXH cần tuân thủ đúng quy định về huy động vốn, tiếp nhận tài trợ… Ngoài ra, pháp luật về DNXH cũng quy định về các chính sách, ưu đãi, hỗ trợ dành cho loại hình này.như ưu đãi về thuế, về vốn dành cho DNXH…
- Về các vấn đề về giải thể, tổ chức lại DNXH: Về giải thể và tổ chức lại ngoài việc DNXH thuộc các trường hợp quy định tại LDN 2020; thì còn phải đáp ứng các điều kiện về xử lý tài chính đối với khoản viện trợ.
Trong chương này, nghiên cứu sinh cũng đã đưa ra thực trạng áp dụng pháp luật về DNXH thông qua mô hình DNXH trong một số lĩnh vực điển hình. Từ đó có đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về DNXH tại Việt Nam hiện nay.
Ngoài ra, cùng với việc xen kẽ so sánh pháp luật về DNXH từ một số quốc gia trên thế giới, Việt Nam có thể rút ra được những bài học quý giá cả từ những ưu điểm và hạn chế trong hệ thống pháp luật về DNXH của các quốc gia này, để từ đó hoàn thiện hơn pháp luật về DNXH.
Chương 4
PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
4.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay
Có thể nhận thấy, LDN mới 2020 không có thay đổi trong các quy định về DNXH. Như vậy, trong nghiên cứu này, tác giả vẫn giữ quan điểm đưa ra một số phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về DNXH cho Việt Nam như sau:
Thứ nhất, Hoàn thiện pháp luật về DNXH tại Việt Nam trên quan điểm, chính sách tự do hóa thương mại của Nhà nước trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu, xuất phát từ đặc thù của nền kinh tế Việt Nam
Trong hơn hai thập kỷ qua, tiến trình hội nhập toàn diện của Việt Nam đang đứng trước những cơ hội và thách thức to lớn, sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN (ngày 25/07/1995), ASEM (tháng 03/1996), APEC (tháng 11/1998) và của WTO (ngày 11/01/2007), tham gia ký kết các hiệp định thương mại tự do (Free Trade Agreement, FTA), trong đó có các hiệp định thương mại tự do có tính toàn diện, vượt ra ngoài khuôn khổ tự do hóa thương mại hàng hóa (FTA thế hệ mới) như FTA Việt Nam-EU (EVFTA); Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP); các FTA ASEAN+1…Như vậy, có thể nhận thấy, mở rộng kinh tế đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay luôn là chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình đổi mới đất nước. Cụ thể, tại Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VII, Đảng ta chủ trương tiếp tục mở rộng hợp tác, bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, các tổ chức quốc tế không phân biệt chế độ chính trị xã hội trên nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình, cố gắng khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế như Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng phát triển Châu Á… Đến Đại hội Đảng lần thứ VIII tiếp tục khẳng định “xây dựng một nền kinh tế mở”, “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”. Đến báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ IX khẳng định: “Tiếp tục chính sách mở cửa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tích cực chuẩn bị các điều kiện, thể chế, cán bộ… để thực hiện thành công quá trình hội nhập”, “thực hiện nghiêm chỉnh các cam kết trong quá trình hội nhập, trước hết là lộ trình giảm thuế quan… tích cực thực hiện các cam kết đối với các cơ chế hợp tác song phương và đa phương mà nước ta tham gia, đặc biệt chú ý tới các cam kết trong khuôn khổ ASEAN; xúc tiến đàm phán gia nhập WTO”.
Nền kinh tế Việt Nam được xây dựng, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tại Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương khóa IX tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ: “tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Tại Hiến pháp Việt Nam năm 2013 quy định: “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo” [18]. Như vậy, ngoài vấn đề chú trọng phát triển kinh tế thì nền kinh tế Việt Nam cũng cần hướng tới mục tiêu đảm bảo các vấn đề xã hội, chăm lo đời sống người dân, đặc biệt là những người yếu thế (người tàn tật, người mãn hạn tù…) cũng đang được đặt ra một cách cấp thiết.
Cũng theo hướng phát triển kinh tế đó, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam, từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội X, đã rút ra một số kinh nghiệm đáng lưu ý, trong đó vấn đề về phát triển kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa được nhấn mạnh, cụ thể là: “ phải coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là trong tình hình kinh tế khó khăn, suy giảm…”.
Đặc biệt, tại Văn kiện đại hội Đảng lần thứ XIII, một số điểm mới trong định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030 đó là:
(1) Định hướng về xây dựng, hoàn thiện thể chế: Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường..., tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc; khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước.
(2) Định hướng về phát triển kinh tế: Hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường thuận lợi để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, thúc đẩy đầu tư, sản xuất kinh doanh. Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển đô thị; phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới; đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia; phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
(3) Định hướng về phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ: Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài. Thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng
mạnh mẽ thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, chú trọng một số ngành, lĩnh vực trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế để làm động lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu vực và thế giới.
(4) Định hướng phát triển con người và xây dựng nền văn hóa: Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước.
(5) Định hướng về quản lý phát triển xã hội: Quản lý phát triển xã hội có hiệu quả, nghiêm minh, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; xây dựng môi trường văn hoá, đạo đức xã hội lành mạnh, văn minh; chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, chất lượng dân số, gắn dân số với phát triển; quan tâm đến mọi người dân, bảo đảm chính sách lao động, việc làm, thu nhập, thực hiện tốt phúc lợi xã hội, an sinh xã hội. Không ngừng cải thiện toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
(6) Định hướng về thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường: Chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai, dịch bệnh; quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài nguyên; lấy bảo vệ môi trường sống và sức khoẻ nhân dân làm mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường.
(7) Định hướng về bảo vệ Tổ quốc: Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, an ninh kinh tế, an ninh mạng, an ninh con người, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương. Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những nhân tố bất lợi, nhất là những nhân tố có thể gây đột biến; đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch.
(8) Định hướng về đối ngoại: Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam.
(9) Định hướng về đại đoàn kết toàn dân tộc: Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò tự quản của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội; tiếp tục đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
(10) Định hướng về xây dựng Nhà nước: Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước. Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội.
(11) Định hướng về xây dựng Đảng: Tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện; tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng; đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, nhất là cán bộ cấp chiến lược có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; làm tốt công tác tư tưởng, lý luận; chú trọng công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật và dân vận của Đảng.
(12) Về các mối quan hệ lớn: Tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các quan hệ lớn: Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ; giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội.
Loại hình tổ chức kinh doanh là DNXH đã đóng góp lớn cho sự phát triển nền kinh tế các nước, là mô hình san sẻ gánh nặng về phúc lợi xã hội cho ngân sách nhà nước, đảm bảo các quyền lợi cho các đối tượng yếu thế, khuyết tật, trẻ em lang thang cơ nhỡ,