nước, đảm bảo hoạt động của đảng viên và tổ chức đảng trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, không vi phạm 19 điều quy định đảng viên không được làm. Tích cực lãnh đạo công tác phát triển đảng viên, thành lập tổ chức đảng vùng DTTS, ở những thôn, bản chưa có tổ chức đảng độc lập và “trắng” đảng viên để vừa đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng ở khắp cơ sở, vừa góp phần tạo nguồn CB, CC cho HTCT. Phân công cấp uỷ viên, cán bộ đứng đầu các ngành, đoàn thể trong xã trực tiếp theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc các chi bộ thôn, buôn hoạt động. Quan tâm nâng cao chất lượng đội ngũ bí thư chi bộ, tạo điều kiện về kinh phí và thời gian để các bí thư tham gia các lớp bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng lực công tác đảng, nhất là sau mỗi kỳ đại hội hay củng cố tổ chức, thay đổi nhân sự.
Các chi bộ thôn, buôn có đông đồng bào DTTS chú trọng nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng. Trước hết chú ý đến nền nếp sinh hoạt, quy định ngày sinh hoạt chi bộ cụ thể trong tháng để các đảng viên chủ động sắp xếp công việc cá nhân. Chi uỷ hoặc đồng chí bí thư chi bộ (nơi không thành lập được chi uỷ) chủ động xây dựng kế hoạch, nội dung sinh hoạt cụ thể. Sau mỗi buổi sinh hoạt chi bộ phải có nghị quyết hoặc kết luận về nhiệm vụ sắp tới. Bí thư, chi uỷ chi bộ có trách nhiệm đôn đốc, kiểm tra thường xuyên việc thực hiện nghị quyết, kết luận của toàn thể đảng viên trong chi bộ. Khi lồng ghép nhiệm vụ tạo nguồn cán bộ, cần đánh giá đúng mức những việc làm được hay chưa đạt yêu cầu, những cá nhân cụ thể liên quan đến nó, rút ra nguyên nhân chủ quan, khách quan làm cơ sở để xác định trách nhiệm mỗi cá nhân đảng viên và cấp uỷ chi bộ.
Để đẩy mạnh việc xây dựng chi bộ trong sạch, vững mạnh, ngay từ đầu năm, đảng uỷ xã phải tổ chức cho các chi bộ đăng ký thi đua, gắn chỉ tiêu tạo nguồn cán bộ cho HTCT vào đó. Trên cơ sở tiêu chuẩn, các chi bộ phát động phong trào thi đua trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Việc tổ chức đánh giá, phân loại chất lượng chi bộ phải đúng qui trình, bám sát hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương và những tiêu chí thi đua đã đăng ký. Tổng kết, biểu dương, khen thưởng những chi bộ, cá nhân xuất sắc nghiêm túc và kịp thời.
Thực hiện tốt chủ trương của Đại hội lần thứ XI: “Phát huy tính tiền phong gương mẫu, chủ động sáng tạo của đội ngũ đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ được giao” [40, tr.168], đảng uỷ xã, các chi bộ chú trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao ý thức chính trị, trách nhiệm của người đảng viên. Tăng cường quản lý, phân công nhiệm vụ cụ thể cho đảng viên, qua đó kiểm tra, đánh giá chất lượng công tác của đảng viên trong các kỳ sinh hoạt chi bộ. Kịp thời phát hiện, uốn nắn những tư tưởng lệch lạc, kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những đảng viên vi phạm kỷ luật, thoái hoá, biến chất. Đối với công tác tạo nguồn, mỗi đảng viên phải xác định cho mình nhiệm vụ tích cực tuyên truyền, vận động các hộ gia đình người DTTS và con em của họ tham gia vào quy trình đào tạo nguồn CB, CC của địa phương. Giáo dục ý thức dân tộc, trách nhiệm xã hội, qua đó giúp cho thế hệ trẻ định hướng phấn đấu phù hợp với năng lực, sở trường và điều kiện của bản thân.
- Xây dựng chính quyền xã thực sự là của dân, do dân và vì dân. Nâng cao chất lượng hoạt động của bộ máy chính quyền xã (HĐND, UBND) theo hướng đồng bộ, nhịp nhàng, đúng chức năng, nhiệm vụ và có hiệu quả. Phát huy vai trò HĐND xã là cơ quan quyền lực nhà nước ở cơ sở, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân trong việc quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương, xây dựng và phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, làm tròn nghĩa vụ với cấp trên. Nâng cao chất lượng đại biểu HĐND thông qua công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, cung cấp thông tin, giáo dục pháp luật… để thực hiện tốt chức năng giám sát đối với hoạt động của Thường trực HĐND, UBND; giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân địa phương. Xây dựng và vận hành bộ máy UBND xã tinh gọn, bao gồm những công chức mẫn cán, được tuyển dụng từ nguồn đủ tiêu chuẩn, được đào tạo, bồi dưỡng nâng tầm quản lý hàng năm, gần gũi, hiểu dân và vì dân… để có thể thực hiện tốt chức năng là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước
HĐND xã và cơ quan nhà nước cấp trên trong việc chấp hành Hiến pháp, pháp luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của HĐND xã. Thực hiện tốt việc luân chuyển một số chức danh công chức xã theo quy định của Trung ương, như kế toán, địa chính, tư pháp... nhằm hạn chế, ngăn chặn tình trạng quan liêu, tham nhũng trong khi thi hành công vụ, đồng thời góp phần đào tạo, rèn luyện công chức để tạo nguồn cán bộ chủ chốt cho xã.
Tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động của chính quyền xã theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 khoá X của Đảng. Chú ý một số khâu quan trọng trong công tác quản lý, điều hành xã hội gắn với điều kiện thực tế ở địa phương. Ví dụ: Mọi quá trình xây dựng kế hoạch, chương trình, đề án thực hiện nghị quyết cấp trên và nghị quyết của đảng bộ xã đều phải chú ý khâu thu thập thông tin và hỏi ý kiến từ quần chúng (trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội), nhất là trên một số lĩnh vực nhạy cảm, bức xúc ở Tây Nguyên hiện nay (như: khiếu kiện đất đai; hoạt động tôn giáo, đạo lạ...). Nghiên cứu mô hình hoạt động của chính quyền xã trong điều kiện cố định về biên chế CB, CC theo quy định của Bộ Nội vụ, nhưng có thể linh hoạt trong sử dụng con người, các lực lượng tăng cường, phối hợp. Ví dụ: bổ sung công chức dự bị, tăng cường sử dụng cán bộ không chuyên trách để thực hiện những nhiệm vụ quan trọng, nhạy cảm ở địa phương trong một phạm vi thời gian nhất định. Quá trình bố trí, sử dụng các lực lượng này nếu đặt thêm mục tiêu tạo nguồn CB, CC xã qua thực tiễn công việc thì sẽ thu được hai kết quả trong một hình thức sử dụng cán bộ ở cơ sở.
Có thể bạn quan tâm!
- Phương Hướng, Mục Tiêu, Quan Điểm Định Hướng Đẩy Mạnh Công Tác Tạo Nguồn Cán Bộ, Công Chức Xã Người Dân Tộc Thiểu Số Ở Tây Nguyên Đến Năm
- Đổi Mới Việc Thực Hiện Nội Dung, Phương Thức Tạo Nguồn Cán Bộ , Công Chức Xã Người Dân Tộc Thiểu Số
- Củng Cố, Phát Triển, Giao Trách Nhiệm Cụ Thể Cho Hệ Thống Các Trường Dân Tộc Nội Trú, Các Cơ Sở Giáo Dục - Đào Tạo Trên Địa Bàn Tây Nguyên Tham
- Tạo nguồn cán bộ, công chức xã người dân tộc thiểu số ở các tỉnh Tây Nguyên giai đoạn hiện nay - 20
- Nguyễn Bạn (2009), Một Số Vấn Đề Về Nâng Cao Chất Lượng Nguồn Nhân Lực Cán Bộ Là Người Dân Tộc Thiểu Số Ở Tây Nguyên. Phân Hiệu Đại Học Đà
- Blong Tiến (2009), Đề Xuất Các Giải Pháp Chủ Yếu Để Nâng Cao Chất Lượng Nguồn Nhân Lực Cho Người Dân Tộc Thiểu Số. Www.kontum.udn.vn, 11-2009.
Xem toàn bộ 203 trang tài liệu này.
- Xây dựng Mặt trận và các đoàn thể vững mạnh, gắn mục tiêu tạo nguồn
CB, CC người DTTS vào quá trình tổ chức phong trào quần chúng.
Xác định đúng và tăng cường nhiệm vụ gần dân, sát dân nhất, nắm chắc tình hình và nguyện vọng của nhân dân để Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội thực hiện tốt chức năng đại diện quyền lợi nhân dân và tham gia giám sát, phản biện xã hội, xây dựng Đảng và chính quyền trong sạch, vững mạnh. Nghiên cứu đổi mới bộ máy, nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể phải
loại trừ được tình trạng hình thức, hành chính hoá trong hoạt động của cơ quan thường trực và đội ngũ cán bộ chuyên trách. Hướng mạnh mọi hoạt động về cộng đồng dân cư và từng gia đình để mở rộng và đa dạng hoá các hình thức tập hợp quần chúng, chú ý đến nhu cầu của mỗi thế hệ, giới, ngành, lĩnh vực để tổ chức xây dựng các đoàn thể, hội nghề nghiệp, văn hoá hữu nghị, từ thiện nhân đạo…
Tổ chức các phong trào thi đua yêu nước gắn với các chương trình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn dân cư. Ở Tây Nguyên, đó là các chương trình xoá đói, giảm nghèo, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hàng hoá đặc trưng vùng miền, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, liên kết hộ, vùng, miền để tạo sức mạnh tổng hợp cho sản phẩm hàng hoá. Nâng cao dân trí, bồi dưỡng dân sinh, xoá bỏ tập tục lạc hậu, mở rộng giao lưu văn hoá các dân tộc, xây dựng khối đoàn kết toàn dân trong từng thôn buôn, từng xã, và trên toàn thể cộng đồng các dân tộc ở Tây Nguyên. Tích cực chống nạn quan liêu tham nhũng, bảo đảm sự phát triển bền vững của nền kinh tế và thực hiện một bước công bằng xã hội. Trong mỗi phong trào thi đua, luôn gắn mục tiêu tạo nguồn CB, CC xã người DTTS vào thành một tiêu chí đánh giá chất lượng phong trào. Những cán bộ luôn biết gắn công tác phong trào với mục tiêu tạo nguồn, những đảng viên đi đầu, gương mẫu, những quần chúng hăng hái, nhiệt tình, sáng tạo và có động cơ trong sáng... chính là nguồn quý, cần động viên, khuyến khích để tạo nguồn CB, CC xã.
Để phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng trong tạo nguồn CB, CC xã người DTTS, phải chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ đoàn thể vững mạnh. Khi yêu cầu tiêu chuẩn cán bộ phải nhiệt tình, có kiến thức, có trách nhiệm, thì luôn phải gắn với chính sách ưu đãi, hỗ trợ thoả đáng. Chú ý vận dụng linh hoạt quy định của Nhà nước, cùng với việc xã hội hoá nhiều nguồn thu cho ngân sách để giải quyết chế độ cho cán bộ, nhất là số cấp phó, các uỷ viên ban chấp hành, trưởng và phó các chi hội đoàn thể ở thôn buôn, lực lượng nòng cốt, người có uy tín trong cộng đồng.
- Phát huy vai trò của cộng đồng người DTTS, nhất là lực người có uy tín trong đổi mới các nội dung tạo nguồn là một phần giải pháp quan trọng, có tính đặc thù đối với tạo nguồn CB, CC xã người DTTS ở Tây Nguyên. Với người
DTTS, tác động của cộng đồng dân tộc nhiều khi có ý nghĩa quyết định phương hướng phát triển của một cá nhân, liên quan đến phương thức sống quần tụ khá hẹp trong phạm vi buôn làng. Khi kinh tế thị trường len lỏi vào cộng đồng DTTS, làm thay đổi quan niệm, chi phối lối sống của một bộ phận đồng bào, gây những băn khoăn trong định hướng phát triển của giới trẻ, thì lại một lần nữa, ý kiến của cộng đồng dân tộc, nhất là những người có uy tín có một tác động rất tích cực.
Người có uy tín trong cộng đồng các DTTS thường là thầy cúng (trước đây), già làng, trưởng bản, trưởng dòng họ, trí thức, chức sắc tôn giáo… Uy tín và uy quyền của họ từng tồn tại và phát huy vai trò đối với sự phát triển của cộng đồng trong suốt chiều dài lịch sử. Khi luật pháp nhà nước cùng những công cụ bảo vệ pháp luật chưa xâm nhập sâu vào đời sống đồng bào, thì những người có uy tín cùng dân làng xây dựng nên luật tục và điều hành hoạt động của cả buôn làng theo luật tục đó. Lúc cần trừng phạt người vi phạm, họ phải thay mặt dân làng đứng ra phán xét. Lúc cần giáo dục, khuyên bảo, động viên, họ cũng là người có tiếng nói thuyết phục nhất. Trên tinh thần Chỉ thị 06/2008/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 01-02-2008 về việc phát huy vai trò của người có uy tín, tiêu biểu trong đồng bào DTTS, các tỉnh Tây Nguyên đã xây dựng được lực lượng người có uy tín theo phương thức người dân suy cử công khai, mỗi thôn, buôn, tổ dân phố một người.
Vai trò của người có uy tín trong công tác tạo nguồn CB, CC xã người DTTS thể hiện ở chỗ: Một mặt, một bộ phận người có uy tín đã là nguồn CB, CC xã, hoặc đang là đối tượng tạo nguồn CB, CC xã. Những cố gắng trong công tác của họ ở xã, ở thôn, buôn và trong quá trình tham gia vào các nội dung tạo nguồn sẽ có tác dụng trực tiếp đến hiệu quả tạo nguồn CB, CC. Mặt khác, bằng uy tín cá nhân, họ có thể nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, điều kiện thực tế của con em các DTTS và gia đình của họ. Qua đó họ vận động, thuyết phục, có ý kiến đóng góp đối với cả chủ thể lẫn đối tượng tạo nguồn để công tác tạo nguồn nói chung, quá trình thực hiện các nội dung tạo nguồn nói riêng đạt hiệu quả tốt nhất. Ngoài ra, họ có thể góp phần giám sát, phản biện, góp ý điều chỉnh phương thức, mục tiêu tạo nguồn cụ thể ở địa phương.
Để phát huy vai trò của người có uy tín trong cộng đồng các DTTS, trước hết phải xây dựng họ trở thành một đội ngũ có tổ chức, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của cấp uỷ huyện và xã. Ban Tổ chức, Ban Dân vận cấp uỷ và các đoàn thể chính trị
- xã hội ở xã là người tham mưu và quản lý nhân sự, tổ chức các hoạt động. Thường xuyên bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ, trao đổi kinh nghiệm công tác quần chúng cho họ. Vận dụng linh hoạt chính sách của Nhà nước và sự đóng góp của cộng đồng để hỗ trợ phương tiện hoạt động và khắc phục khó khăn cho các thành viên. Thăm hỏi, động viên, khuyến khích các thành viên khi có thành tích đặc biệt và trong những thời điểm nhạy cảm, cụ thể (như tang gia, hiếu hỉ, lễ tết…).
Nghiên cứu gắn trách nhiệm của người có uy tín trong từng nội dung cụ thể của tạo nguồn CB, CC xã người DTTS sẽ phát huy tốt hơn vai trò của cả lực lượng. Các cấp uỷ đảng cần tham khảo ý kiến của họ khi xác định cụ thể tiêu chuẩn nguồn CB, CC xã người DTTS, nhất là tiêu chuẩn nguồn xa là người DTTS tại chỗ ở thôn, buôn. Sử dụng người có uy tín trong giám sát việc thực hiện tiêu chuẩn nguồn khi triển khai các nội dung tạo nguồn; phát hiện, bồi dưỡng quần chúng người DTTS ưu tú trong phong trào quần chúng; đề xuất và giám sát việc thực hiện chính sách cử tuyển, hỗ trợ kinh phí cho con em người DTTS đi đào tạo nhằm hạn chế những tiêu cực phát sinh.
Nghiên cứu những cách làm hay của lực lượng người có uy tín trong cộng đồng DTTS các địa phương khác trên cả nước để rút kinh nghiệm và học tập. Ví dụ ở Ninh Thuận và Bình Thuận, nơi tập trung đông đảo người Chăm nhất cả nước, các cấp uỷ đảng đã phát huy được vai trò tác động từ phía những người có uy tín trong cộng đồng dân tộc Chăm đối với việc tạo nguồn cán bộ. Ở đây, khi gia đình, dòng họ nào có con em học khá, người có uy tín nhắc nhở mọi người tập trung động viên; khi có người làm cán bộ, người có uy tín nhắc mọi người hết lòng tạo điều kiện, nhất là về thời gian để cho cán bộ đó làm việc, cống hiến tốt. Được quan tâm, chăm sóc, bản thân cán bộ người Chăm luôn biết chăm chỉ học tập, tự giác nâng cao trình độ, rèn luyện phẩm chất, làm gương sáng cho con em, cho thế hệ trẻ noi theo. Vì vậy, tỷ lệ người Chăm tham gia vào bộ máy HTCT khá
nhiều. Đặc biệt, y tế và giáo dục là hai ngành rất được đồng bào Chăm định hướng cho con em phấn đấu. Huyện Thuận Nam, tỉnh Ninh Thuận, người dân tộc Chăm chỉ chiếm 23,18%, nhưng 35,43% số học sinh các trường phổ thông là người Chăm, giáo viên người Chăm còn chiếm tỷ lệ cao hơn - 46,31%. Số học sinh người Chăm bỏ học giữa chừng vì nghèo gần như không có. Đó là nhờ trong công tác giáo dục tạo nguồn nhân lực cho địa phương, việc hỗ trợ cho con em người DTTS diện hộ nghèo luôn được đến trường đã được các cấp, các ngành quan tâm.
Song song với việc sử dụng lực lượng người có uy tín trong cộng đồng DTTS tham gia vào tạo nguồn CB, CC xã người DTTS, cần phải chú ý vấn đề động viên tinh thần và khuyến khích lợi ích vật chất cho lực lượng này, nhất là đối với những người có tinh thần trách nhiệm cao, có thành tích cụ thể đối với tạo nguồn CB, CC tại chỗ.
3.2.5. Đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, xoá đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng dân số, giữ vững ổn định chính trị vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, tạo môi trường xã hội tích cực cho tạo nguồn cán bộ, công chức xã người dân tộc thiểu số
Đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, xoá đói, giảm nghèo bền vững là giải pháp tác động tích cực cho tạo nguồn CB, CC hiệu quả dài lâu. Ở những vùng kinh tế - xã hội ổn định và phát triển, Nhà nước, các lực lượng xã hội và từng gia đình có điều kiện đầu tư cho nguồn nhân lực chất lượng cao, nên các cấp uỷ đảng rất thuận lợi trong việc thu hút nguồn vào tổ chức. Khi triển khai Đề án tạo nguồn bí thư, chủ tịch xã, phường, Thành uỷ Đà Nẵng chỉ cần ra thông báo thì lập tức hàng ngàn hồ sơ sinh viên tốt nghiệp khá và giỏi được gửi đến cho Ban Tổ chức, đó là vì Đà Nẵng đang trên đà phát triển để là “Thành phố đáng sống”, có sức hấp dẫn đối với nguồn nhân lực trẻ. Dù rất nhiều năm, các cấp, các ngành ở Tây Nguyên quyết liệt trong công tác tạo nguồn, nhưng kết quả cuối cùng chỉ ở mức độ nhất định, có nguyên nhân khách quan từ vấn đề kinh tế - xã hội. Đồng bào DTTS Tây Nguyên còn nghèo, giao lưu vùng nông thôn cách trở, nên việc tham gia vào đời sống chính trị, việc các gia đình đầu tư cho giáo dục đào tạo có phần như là “xa xỉ”.
Tháng 7-2012, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên đến năm 2020 với mục tiêu từng bước đưa Tây Nguyên trở thành vùng động lực phát triển của cả nước. Đây là cơ hội để các tỉnh Tây Nguyên huy động nguồn lực ở tất cả các cấp, các ngành từ Trung ương đến cơ sở cho vệc phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo, nâng cao mặt bằng dân trí, chất lượng dân số, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá các dân tộc, mở rộng giao lưu và hội nhập trong nước và quốc tế.
Để tận dụng cơ hội, các cấp, các ngành ở Tây Nguyên phải thể hiện tính tích cực, năng động, sáng tạo của mình. Các ngành kinh tế tích cực chuyển đổi toàn diện cơ cấu nông nghiệp theo hướng hàng hoá, quy mô lớn và tập trung, sức cạnh tranh cao, hiệu quả và bền vững gắn với công nghiệp chế biến; ứng dụng công nghệ cao, công nghệ sinh học vào sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Xây dựng thương hiệu một số sản phẩm có lợi thế so sánh như cà phê, cao su, ca cao, tiêu. Tập trung chăn nuôi đại gia súc như bò thịt, bò sữa, trâu, dê... Phát huy có hiệu quả tiềm năng mặt nước để phát triển thuỷ sản. Phát triển công nghiệp khai thác bô xít và chế biến alumin thành ngành công nghiệp lớn của cả nước. Đẩy nhanh phát triển các ngành thương mại dịch vụ, từng bước hiện đại hoá kết cấu hạ tầng đảm bảo hàng hoá lưu thông thuận lợi. Đa dạng hoá các sản phẩm du lịch trên cơ sở khai thác tiềm năng và thế mạnh về tài nguyên thiên nhiên, lịch sử, văn hoá truyền thống các DTTS. Đẩy mạnh phát triển kinh tế cửa khẩu, các dịch vụ vận tải, viễn thông, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, chuyển giao công nghệ, các dịch vụ khác phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân.
Phát triển kết cấu hạ tầng làm động lực phát triển kinh tế - xã hội. Bố trí lại dân cư theo quy hoạch sản xuất và mục tiêu quốc phòng an ninh, khôi phục và thành lập các buôn làng mới theo quy hoạch nông thôn mới. Xây dựng thế trận an ninh vững chắc từ cơ sở, ngăn chặn di cư trái phép, đẩy lùi tệ nạn xã hội. Phát hiện và đấu tranh có hiệu quả với các hoạt động xâm nhập trái phép, lôi kéo phá hoại, tổ chức bạo loạn gây mất ổn định chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội vùng Tây Nguyên.