Mô Tả Lập Luận Của Tác Giả Về Lý Thuyết Ổn Định Ngân Hàng


gây ra sự bất ổn. Từ hành vi lựa chọn đầu tư an toàn, nhà đầu tư lại phát sinh thái độ lựa chọn phương án đầu tư mạo hiểm nhằm tìm kiếm cơ hội sinh lời cao hơn nữa. Chính tâm lý kỳ vọng vào việc gia tăng khả năng sinh lợi từ các dự án khiến họ gia tăng đòn bẩy nợ.

Tuy nhiên thất bại lớn nhất của các nhà đầu tư là khả năng dự báo tương lai về xác suất đạt lợi nhuận như kỳ vọng, tức là mức độ bão hòa của lĩnh vực đầu tư hay của nền kinh tế nói chung. Sự thiếu chính xác này dẫn đến việc gia tăng đòn bẩy nợ vượt quá mức độ chịu đựng đối với rủi ro, tức là hoạt động đầu tư lúc bấy giờ mang tính chất “đầu cơ” là chính. Cuối cùng dẫn đến việc vay nợ để trả nợ - tài trợ Ponzi (Minsky, 1977). Tất nhiên tài trợ kiểu ponzi dẫn đến kết quả vỡ nợ. Sau đó nền kinh tế lại quay lại trạng thái đầu tư phòng ngừa, hạn chế tài trợ vốn và ưu tiên tìm kiếm lĩnh vực an toàn.

Lý thuyết về bất ổn tài chính của Minskin:

Đồng quan điểm với Minsky (1977), nghiên cứu của Frederick Mishkin (1999), đánh giá bất ổn tài chính phát sinh khi xuất hiện các cú sốc đối với các TCTC và HTTC. Hậu quả là gây ra sự cản trở về tốc độ lưu truyền và khả năng tiếp cận thông tin làm cho các TCTC không thể thực hiện tốt chức năng vốn có của mình trong việc phân bổ nguồn vốn đầu tư một cách hiệu quả nhất.

Một cách nhìn nhận khác về bất ổn tài chính là rủi ro – nguyên nhân chính gây gia tăng khủng hoảng tài chính, thậm chí là sụp đổ HTTC (Davies, 2005). Rủi ro xảy ra làm cho các TCTC mất khả năng cung ứng thực hiện thanh toán cho nền kinh tế, hay phân bổ tín dụng hiệu quả cho các cơ hội đầu tư không thể thực hiện được. Do đó, thúc đẩy ổn định tài chính trong trường hợp này đồng nghĩa với quản trị rủi ro cho HTTC.

Lý thuyết về bất ổn tài chính của Koo:

Một dạng bất ổn tài chính khác cũng được các nhà kinh tế học quan tâm và nghiên cứu là suy thoái kinh tế, giảm phát. Điển hình là nghiên cứu của nhà kinh tế học Koo (2011) về cuộc suy thoái bảng cân đối kế toán (Balance – sheet Recession) tại Nhật, tức là các công ty nỗ lực cải thiện bảng cân đối kế toán tài sản bằng cách


giảm thiểu các khoản nợ. Nguyên nhân xuất phát là do vào những năm của thập niên 90, lĩnh vực tư nhân tại Nhật hầu như dùng bất động sản làm tài sản thế chấp cho các khoản vay sản xuất kinh doanh hay đầu tư vào các dự án bất động sản khác. Bong bóng bất động sản bùng nổ, giá giảm sâu. Các khoản vay hay giá bất động sản trên bảng cân đối tài sản đã khiến cho doanh nghiệp bị lỗ nặng. Để cải thiện điều này, hầu hết dòng tiền được tạo ra dùng để trả nợ chứ không tái đầu tư. Lúc này tổng cầu giảm xuống làm cho nền kinh tế bị đình đốn. Một nền kinh tế yếu lại kéo theo sự giảm giá sâu hơn giá trị tài sản, xuất hiện phá sản hàng loạt. Các NHTM gánh chịu nhiều nợ xấu, NHTW Nhật buộc phải thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 221 trang tài liệu này.

Như vậy, có thể thấy vấn đề ổn định tài chính chỉ thực sự được quan tâm bắt nguồn từ vấn đề bất ổn tài chính. Nguyên nhân xuất phát từ thực tiễn nền kinh tế lâm vào tình trạng bất ổn trong HTTC ở một quốc gia, khu vực hay toàn thế giới. Buộc các nhà chính sách, kinh tế, các nhà quản trị phải tìm kiếm các giải pháp nhằm ngăn ngừa và giải quyết tác động tiêu cực, gây ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống dân cư.

Do đó, khi nhìn vào nội dung mấu chốt trong hầu hết các cuộc tranh luận của các nhà kinh tế học qua thời gian, sẽ thấy những học thuyết của Keynes hàm ý bao quát nhất các vấn đề chính yếu của chính sách KTVM. Các nội dung của học thuyết đã liệt kê nhiều đặc tính khác nhau về hành vi của các chủ thể trong tổng cầu, nhấn mạnh tầm quan trọng của kỳ vọng về tương lai. Những nội dung đó giúp hình thành nên chính sách vĩ mô của một quốc gia. Có thể nói toàn bộ tư tưởng KTVM chủ đạo ngày nay đang hướng đến và nghiên cứu là kết quả tổng hợp từ nội dung tư tưởng của Keynes, vì nó khá thích ứng, dễ vận hành trong điều kiện nhiều chủ thể khác nhau của kinh tế học. Đây còn gọi là sự tổng hợp Tân cổ điển – Keynes và là nền tảng vững chắc cho các chính sách can thiệp của chính phủ ở nhiều quốc gia.

Tác động của đa dạng hóa và cạnh tranh đến ổn định của ngân hàng thương mại: Nghiên cứu tại Việt Nam - 5

Vậy ổn định tài chính là gì? Theo Keynes, những biến động tức thời trong ngắn hạn biểu hiện bằng các hiện tượng như lạm phát, thất nghiệp hay tăng trưởng,…là nguyên nhân gây ra những biến động trong HTTC. Do đó, để can thiệp


cần thực hiện công cụ tài khóa và tiền tệ để ứng phó trong một thời gian ngắn.Ông cũng đề cao vai trò của chính phủ trong điều tiết các công cụ trên.

Ủng hộ tư tưởng của Keynes, phát triển theo quan điểm Minsky, giai đoạn 2 là thời điểm dễ xảy ra rủi ro vì các nhà đầu tư gia tăng đòn bẩy nợ thông qua hoạt động vay vốn từ các trung gian tài chính. Khi đòn bẩy nợ vượt quá khả năng chịu đựng rủi ro sẽ dẫn đến bong bóng tài chính bị vỡ kéo theo khủng hoảng nợ vay. Các nhà đầu tư mất đi khả năng trả nợ làm tổn hại đến nguồn vốn của nền kinh tế. Do đó, vai trò của trung gian tài chính ở giai đoạn này vô cùng quan trọng. Các NHTM cần điều tiết lượng vốn cho vay, dựa trên nhận định và phân tích cung cầu tiền tệ trong nền kinh tế. Chính phủ cũng cần can thiệp giới hạn cấp tín dụng của các NHTM bằng các công cụ tiền tệ thích hợp. Từ đó, giảm sức ép lên bong bóng tài chính trong tương lai. Như vậy vừa duy trì khả năng sinh lời cho các nhà đầu tư, đảm bảo ổn định cho HTTC.

Có thể thấy, tồn tại rất nhiều khái niệm hay nội dung của ổn định tài chính được đề xuất giải thích và phân tích, từ đó giúp hình thành và phát triển các công cụ phân tích thích hợp cũng như đề xuất các chính sách điều hành KTVM được an toàn, nhằm hướng hoạt động của HTTC đến mục tiêu chung ổn định. Mặc dù chưa có định nghĩa nào được chính thức công nhận nhưng có khá nhiều nghiên cứu đã cố gắng để định nghĩa sự ổn định tài chính. Houben và cộng sự (2004) đã đề cập đến sự ổn định tài chính như là sự chuyển biến nội tại liên tục theo thời gian nhằm đạt đến việc kết hợp đa dạng, phù hợp giữa các yếu tố tạo nên ổn định tài chính, từ đó giúp cho nền kinh tế phân bổ hiệu quả nguồn lực, quản lý tốt các rủi ro tiềm ẩn và phát sinh, đồng thời gia tăng sức đề kháng với các cú sốc.

Đến nay kế thừa quan điểm kinh tế học của Keynes và Minsky, chính phủ nhiều quốc gia đã nêu quan điểm về ổn định tài chính có thể liệt kê như sau:

- “Ổn định HTTC là cách HTTC duy trì trong đó các chủ thể bao gồm các trung gian tài chính, thị trường tài chính và hạ tầng tài chính thực hiện tốt các chức


năng của mình và có khả năng chống đỡ được các cú sốc tiềm ẩn” (Định nghĩa của NHTW Thụy Sĩ)1.

- “Ổn định tài chính là khả năng vận hành tốt các chức năng chính của HTTC, kể cả trong thời kỳ kinh tế căng thẳng và thời kỳ điều chỉnh cơ cấu nhằm giúp phân bổ một cách có hiệu quả các nguồn lực và rủi ro tài chính cũng như tạo nền tảng hạ tầng tài chính hiệu quả” (Định nghĩa của NHTW Đức)1.

- “Ổn định HTTC là một trạng thái mà trong đó các trung gian tài chính và hạ tầng tài chính phân bổ tốt các nguồn vốn giữa tiết kiệm và đầu tư, nhờ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế” (Định nghĩa của NHTW Úc)1.

- “Ổn định tài chính hàm ý việc xác định rủi ro trong HTTC và hành động để giảm thiểu chúng” (Định nghĩa của NHTW Anh)1.

- “Ổn định tài chính là một trạng thái trong đó HTTC gồm các trung gian tài chính, thị trường và hạ tầng tài chính có khả năng chống đỡ được các cú sốc và những rủi ro do sự mất cân đối tài chính gây ra từ đó làm giảm bớt khả năng sụp đổ của các trung gian tài chính vốn có tác động tiêu cực đối với việc phân bổ tiết kiệm và đầu tư” (Định nghĩa của NHTW Châu Âu)1.

Nhìn chung có thể thấy hầu như chưa có sự thống nhất nào chính thống về khái niệm hay định nghĩa “Ổn định tài chính”. Thông qua các định nghĩa của một số NHTW trên thế giới, có thể thấy khái niệm này chứa đựng một số nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất, ổn định tài chính đòi hỏi cao về việc thực hiện tốt và hiệu quả các chức năng của các yếu tố cấu thành HTTC bao gồm: thị trường tài chính, các trung gian tài chính và hạ tầng tài chính.

Thứ hai, ổn định tài chính tức là thực thi việc phân bổ có hiệu quả các nguồn lực của nền kinh tế.

Thứ ba, để đảm bảo ổn định tài chính, rủi ro hệ thống cần được phát hiện, đánh giá chính xác và quản lý hiệu quả để tránh những tổn thất gây ra làm sụp đổ HTTC.


1 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam – sbv.com.vn


Thứ tư, ổn định tài chính đòi hỏi phải có sự can thiệp của cơ quan quản lý cấp quốc gia, có thể là NHTW của quốc gia đó, để có những chính sách hành động cụ thể nhằm khắc phục những lỗ hổng trong HTTC những quốc gia này.

Tóm lại, mặc dù chưa có khái niệm chính xác cho thuật ngữ “ổn định tài chính”, tuy nhiên nếu xem xét dưới góc độ vĩ mô, ổn định tài chính là trang thái mà trong đó bao gồm: thị trường tài chính, các định chế tài chính (đặc biệt là các NHTM) thực hiện các chức năng của mình một cách hiệu quả, góp phần phân bổ nguồn lực tối ưu nhất cho nền kinh tế. Đồng thời đánh giá chính xác và quản lý tốt các rủi ro phát sinh để tránh khả năng sụp đổ HTTC.

2.2 Lý thuyết về ổn định ngân hàng

2.2.1 Ổn định của NHTM

Nhìn vào lập luận về ổn định tài chính của các nhà kinh tế học trong suốt thời gian qua, có thể thấy trung tâm của các chính sách đảm bảo an toàn cho hoạt động HTTC là các định chế tài chính trung gian, nổi bật là NHTM. Nội dung chủ yếu của các chính sách là tập trung vào kết quả sự tương tác giữa NHTM với thị trường tài chính và toàn bộ nền kinh tế (IMF, 2007). Xuất phát từ quá trình hình thành, diễn biến và phát triển các lý thuyết về bất ổn định tài chính và ổn định tài chính, lý thuyết ổn định ngân hàng được xem xét trên khía cạnh ổn định tài chính trong hoạt động ngân hàng, bắt nguồn từ nỗ lực đưa ngân hàng thoát khỏi tình trạng mất ổn định tài chính mà nguyên nhân là từ bất ổn của nền kinh tế dẫn đến bất ổn của HTTC gây ra.

Tuy nhiên đến nay, chưa có sự thống nhất nào về khái niệm chính xác cho vấn đề ổn định tài chính của các NHTM. Hầu hết các nghiên cứu về ổn định tài chính ngân hàng được tìm thấy đều đánh giá “bất ổn tài chính” như là một cách tiếp cận để đánh giá “ổn định tài chính". Từ đó, nghiên cứu tập trung vào bất ổn tài chính là trạng thái ngược lại với ổn định tài chính.

Lý thuyết ổn định ngân hàng theo quan điểm của Minsky: Kế thừa quan điểm của Keynes, Minsky đã chỉ ra giai đoạn bất ổn của NHTM khi các nhà đầu tư gia tăng vay vốn đầu cơ với kỳ vọng lãi suất cao trong tương lai. Khi nền kinh tế bất


ổn, lãi suất kỳ vọng của các cơ hội đầu tư không còn, các nhà đầu tư có xu hướng bán hàng loạt tài sản để trả nợ. Lúc này, giá cả các tài sản tài chính cũng giảm sút do mức định giá của NHTM cũng giảm trước biến động của nền kinh tế. Sự suy giảm đột ngột giá trị tài sản tài chính ảnh hưởng nghiêm trọng đến HTTC và khả năng trả nợ của nhà đầu tư. Kết quả là kéo theo sự bất ổn của ngân hàng, thanh khoản ảnh hưởng, nợ xấu tăng cao và nguồn vốn huy động bị giảm đột ngột. Lúc bấy giờ cần thiết có sự can thiệp của chính phủ để khôi phục tình hình thanh khoản, giải quyết nợ xấu,…đưa hoạt động ngân hàng ổn định trở lại.


Ổn định tài chính doanh

nghiệp, công ty

Lý thuyết về bất

ổn tài chính

Lý thuyết về ổn

định tài chính

Ổn định tài chính các

định chế trung gian


Hình 2.1: Mô tả lập luận của tác giả về lý thuyết ổn định ngân hàng

Nguồn: Tác giả tóm tắt cơ sở lý thuyết về ổn định ngân hàng


Dựa trên tư tưởng kinh tế chỉ đạo như trên về bất ổn tài chính ngân hàng, các nhà kinh tế học hiện đại đã cung cấp nhiều bằng chứng thực nghiệm về bất ổn ngân hàng. Ở đó, ngân hàng được xem là một bộ phận của thị trường tài chính, do đó luôn phải chịu ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc nhất từ các biến động của HTTC nói riêng và nền kinh tế nói chung bởi theo Davis (2003), có ba loại bất ổn tài chính: sự thất bại của ngân hàng, giá cả thị trường bất ổn và sự sụp đổ kéo theo thanh khoản thị trường. Do đó ổn định ngân hàng đóng vai trò chủ chốt trong vấn đề ổn định tài chính. Khi hoạt động ngân hàng được khôi phục, kéo theo sự phục hồi của HTTC. Lúc bây giờ, dòng vốn của nền kinh tế được khơi thông, hoạt động kinh doanh cũng sẽ dần đi vào ổn định.


Nghiên cứu của Garcia-Herrero và Del Rio Lopez (2003) và Cíhak (2006) đã xem xét khủng hoảng ngân hàng như là một đại diện cho sự bất ổn tài chính. Với sự phát triển ngày càng lớn mạnh và đa dạng của mình, các định chế tài chính, đặc biệt là ngân hàng, luôn được xem là kênh cung cấp nguồn vốn dồi dào cho các nhà đầu tư trong nền kinh tế. Trong giai đoạn 2 của “Khoảng khắc Minsky”, khi muốn gia tăng đòn bẩy nợ, các nhà đầu tư có xu hướng gia tăng các món vay ngân hàng nhiều hơn để tài trợ vốn cho các cơ hội đầu tư. Khi khủng hoảng tài chính xảy ra (giai đoạn 3 “Khoảnh khắc Minsky”) kéo theo sự bất ổn trong hệ thống ngân hàng do khách hàng suy giảm khả năng trả nợ. Lúc này bong bóng tài chính vỡ kéo theo tình trạng khó khăn cho các NHTM, thậm chí ngân hàng có nguy cơ phá sản vì không thu hồi các khoản nợ cho vay đầu tư quá rủi ro. Lúc bấy giờ, bất ổn ngân hàng lan rộng và có thể làm trầm trọng hơn bất ổn của nền kinh tế.

Một cách tiếp cận khác về ổn định ngân hàng thông qua đánh giá bất ổn tài chính nhằm tìm kiếm các giải pháp hữu hiệu đưa ngân hàng về lại trạng thái ổn định, từ đó xác định và đánh giá ngưỡng chịu đựng của ngân hàng từ trạng thái ổn định sang bất ổn cũng được tìm thấy trong nhiều nghiên cứu trước. Điển hình như nghiên cứu của Lai (2002) về ổn định tài chính nhằm tìm ra nguyên nhân làm cho ngân hàng lâm vào tình trạng bất ổn là khi ngân hàng rơi vào khủng hoảng thanh khoản. Lúc này, nhu cầu về thanh khoản trong ngắn hạn vượt quá khả năng dự trữ tài sản thanh khoản hiện có của ngân hàng. Việc quản trị tài sản của ngân hàng yếu kém đã gây ra tình trạng mất cân đối giữa tài sản nợ ngắn hạn (thường chiếm tỷ trọng cao) và tài sản có dài hạn (thường chiếm tỷ trọng thấp). Ngoài ra, nguyên nhân còn có thể là do nợ xấu ngân hàng tăng cao, khả năng thu hồi nợ bị suy giảm, khách hàng có hành vi rút tiền ồ ạt khi nắm bắt thông tin về tình hình tài chính ngân hàng bị suy yếu, dẫn đến là trầm trọng hơn những bất ổn của ngân hàng.

Nghiên cứu của Diamond và Dybvig (1983) cũng tiếp cận ổn định tài chính dựa trên phân tích và đánh giá khả năng chịu đựng của ngân hàng trước các điều kiện và diễn biến bất ổn. Nghiên cứu mô tả mô hình tháo chạy ngân hàng khi những người gửi tiền hàng loạt rút tiền ra khỏi ngân hàng. Hành động lây lan nhanh chóng


kéo theo hiện tượng các ngân hàng khác cũng rơi vào tình trạng bất ổn không mong muốn.

Bên cạnh đó, tồn tại nhiều nghiên cứu tiếp cận trên quan điểm duy trì ổn định trong hoạt động ngân hàng. Điển hình, theo Swamy (2014), trong bối cảnh hiện nay, các ngân hàng chiếm hơn 70% - 80% của HTTC, ổn định tài chính ngân hàng được đánh giá đóng vai trò quan trọng nổi trội hơn trong các công việc đảm bảo sự ổn định tài chính. Ngân hàng là cơ quan tạo tiền, hỗ trợ vốn cho tăng trường kinh tế, hay tổ chức và cá nhân. Mặc khác, ngân hàng được xem như một doanh nghiệp đặc biệt vì dễ bị tổn thương hơn các ngành khác. Tình hình tài chính và các vấn đề liên quan đến hoạt động ngân hàng thường đặc biệt vì góp phần đại diện cho HTTC của một quốc gia. Với sự kết nối này, nếu một ngân hàng thiếu an toàn sẽ dẫn đến nguy cơ cho các ngân hàng khác, tạo ra sự lay lan trong toàn hệ thống. Do vậy, theo Swamy (2014), ổn định tài chính của ngân hàng chính yếu vẫn là làm cách nào giảm đến mức tối thiểu những tác động tiêu cực đến nền kinh tế từ các vấn đề bất ổn tài chính ngân hàng gây ra. Nghiên cứu của tác giả cũng cho rằng ổn định tài chính ngân hàng phụ thuộc vào các yếu tố nội tại ngân hàng và các yếu tố vĩ mô của nền kinh tế.

Trong bài nghiên cứu về các yếu tố phản ánh ổn định của hệ thống ngân hàng của hai tác giả Jahn và Kick (2011) có nêu khái niệm về ổn định tài chính ngân hàng như sau: “Sự ổn định tài chính của hệ thống ngân hàng là trạng thái ổn định mà trong đó hệ thống ngân hàng thực hiện các chức năng của mình một cách có hiệu quả bao gồm phân phối nguồn lực, phân tán rủi ro và phân phối thu nhập”.

Theo Pierre Monnin và Terhi Jokipiia (2013) khi nghiên cứu về tác động của ổn định ngân hàng đến nền kinh tế của 18 nước trong OECD đã đưa ra định nghĩa về ổn định ngân hàng như sau: Bất ổn tài chính là xác suất của ngành ngân hàng trở nên không có khả năng trả được nợ trong quý tiếp theo. Do đó, xác suất này càng thấp tương ứng với ổn định càng tăng và ngược lại. Cụ thể, nếu giá trị thị trường của tài sản trong tất cả các ngân hàng nhỏ hơn tổng nợ phải trả, ngân hàng suy giảm hay thậm chí không có khả năng trả nợ, tức là ngân hàng đang bất ổn.

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 26/11/2022