- Cạnh tranh là quy luật khách quan của nền sản xuất hàng hóa, là hiện tượng khách quan của nền kinh tế thị trường. Khi nền sản xuất hàng hóa càng phát triển, số lượng doanh nghiệp cung ứng càng gia tăng, cạnh tranh càng trở nên gay gắt và khốc liệt. Thông qua đó tạo động lực thúc đẩy các nhà sản xuất không ngừng cải tiến công nghệ, máy móc, kỹ thuật, nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ phục vụ ngày càng tốt hơn. Từ đó giúp loại bỏ dần các doanh nghiệp yếu kém, giúp nền kinh tế ngày càng phát triển.
- Mối quan hệ giữa các chủ thể trong quá trình cạnh tranh mang bản chất là mối quan hệ kinh tế. Đó là quá trình tham gia của nhiều người bán hay người mua với cùng mục tiêu. Nếu chỉ có một chủ thể, cạnh tranh sẽ không xảy ra; hoặc nếu có quá ít chủ thể cũng không thúc đẩy sức cạnh tranh. Tuy nhiên nếu nhiều chủ thể tham gia nhưng không cùng mục tiêu cũng làm giảm sức cạnh tranh. Người bán cạnh tranh vì mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, gia tăng thị phần và phát triển thị trường. Người mua cạnh tranh vì mục tiêu tốt đa hóa mức độ thỏa mãn hay gia tăng độ hữu dụng của hàng hóa, dịch vụ tiêu thụ.
- Hoạt động cạnh tranh diễn ra theo từng chủ thể nhưng đều tuân thủ theo những nguyên tắc, quy định nhất định. Những ràng buộc này có thể do đặc điểm tiêu thụ của khách hàng đặt ra; có thể là những thông lệ hay tập quán của thị trường cụ thể hay thị trường kinh doanh của khu vực, của thế giới; và đó còn là những quy định pháp luật của quốc gia và quốc tế,… nhưng tất cả đều nhằm mục đích chung đảm bảo hoạt động cạnh tranh diễn ra lành mạnh và mang lại hiệu quả tích cực cho nền kinh tế.
- Hoạt động cạnh tranh ngày càng diễn ra phong phú và đa dạng. Không chỉ dừng lại ở việc hạ giá bán, tăng chất lượng sản phẩm mà cạnh tranh diễn ra trên nhiều thị trường khác nhau với nhiều phương thức khác nhau và thời điểm luôn linh động. Trong xu thế phát triển sôi động và có nhiều biến chuyển như hiện nay, cạnh tranh không chỉ là doanh nghiệp gia tăng chiếm lĩnh thị phần mà còn là phát triển thị trường mới, tạo ra thị trường cho chính hàng hóa, dịch vụ của mình. Để làm
được điều này đòi hỏi sự hỗ trợ rất lớn từ thành tựu của khoa học công nghệ tiên tiến và áp lực mở rộng thương mại toàn cầu.
2.3.2 Các lý thuyết về cạnh tranh
Lý thuyết cạnh tranh cổ điển:
Ra đời vào khoảng thế kỷ XVIII tại Anh, tiêu biểu cho trường phái lý thuyết cạnh tranh cổ điển là nhân vật kiệt xuất Adam Smith (1723-1790). Ông cho rằng cạnh tranh cùng với kinh tế, nếu phối hợp nhịp nhàng theo cách nào đó hợp lý sẽ mang lại nhiều lợi ích cho xã hội: “Nếu tự do cạnh tranh, các cá nhân chèn ép nhau, thì cạnh tranh buộc mỗi cá nhân phải cố gắng làm công việc của mình một cách chính xác”. Như vậy, A. Smith chủ trương xem chủ nghĩa cá nhân là cơ sở cho mọi lý luận về kinh tế học cổ điển theo chủ nghĩa tự do. Mặc dù mỗi con người về bản chất đều vì lợi ích của riêng mình, nhưng lợi ích đó lại thống nhất với lợi ích xã hội. Nhờ cạnh tranh mà các hành vi lại được thực hiện một cách hài hòa và ngày càng thúc đẩy xã hội phát triển hơn. Do đó cạnh tranh tự do sẽ giúp phát huy nỗ lực hơn trong công việc, không ngừng sáng tạo nhằm tăng năng suất lao động, của cải vật chất của quốc gia cũng tăng lên. Bên cạnh đó, tự do cạnh tranh có thể giúp tự điều tiết các quan hệ cung – cầu, sản lượng của thị trường thông qua giá cả, tổ chức phân công lao động hợp lý, từ đó tạo ra sự cân bằng trong xã hội mà không cần có sự can thiệp của Nhà nước.
Có thể bạn quan tâm!
- Mô Tả Lập Luận Của Tác Giả Về Lý Thuyết Ổn Định Ngân Hàng
- Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Ổn Định Ngân Hàng
- Tác động của đa dạng hóa và cạnh tranh đến ổn định của ngân hàng thương mại: Nghiên cứu tại Việt Nam - 7
- Các Lý Thuyết Về Đa Dạng Hóa Trong Hoạt Động Ngân Hàng
- Cơ Sở Lý Thuyết Về Tác Động Của Đa Dạng Hóa Và Cạnh Tranh Đến Ổn Định Ngân Hàng
- Bảng Tóm Tắt Các Nghiên Cứu Về Tác Động Của Đdh Đến Ổn Định Ngân Hàng:
Xem toàn bộ 221 trang tài liệu này.
Đồng quan điểm với A.Smith, John Stuart Mill cũng khẳng định cạnh tranh góp phần thúc đẩy phát triển xã hội. J.S. Mill đề cao chủ nghĩa cá nhân nhưng ông cho rằng xã hội cần phải can thiệp để ngăn chặn những cá nhân nào có những hành động gây ra hậu quả xấu, thậm chí có thể can thiệp bằng vũ lực.
K.Marx cũng đóng góp rất nhiều trong hệ thống lý luận về cạnh tranh giai đoạn này. Nội dung chính của K.Marx xoay quanh việc cạnh tranh chủ yếu diễn ra ở ba khía cạnh: Cạnh tranh giá thành thông qua việc tăng năng suất lao động; cạnh tranh chất lượng thông qua nâng cao giá trị sử dụng của hàng hóa; cạnh tranh giữa các ngành thông qua gia tăng tính lưu động nhằm phân chia giá trị thặng dư. Như
vậy cạnh tranh tư bản chủ nghĩa trong giai đoạn này chủ yếu diễn ra từ sự quyết định giá trị, thực hiện giá trị và phân chia giá trị thặng dư.
Lý thuyết cạnh tranh của trường phái tân cổ điển:
Đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản có sự chuyển biến mạnh mẽ sang chủ nghĩa tư bản độc quyền. Học thuyết kinh tế của K.Marx ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc nhìn nhận và đánh giá các hiện tượng kinh tế. Bấy giờ, học thuyết kinh tế của trường phái cổ điển dường như bất lực trong việc bảo vệ chủ nghĩa tư bản. Các nhà kinh tế học đã xây dựng hệ thống các lý luận về cạnh tranh dựa trên cơ sở phát triển các học thuyết kinh tế giai đoạn trước đó. Tiêu biểu như: W.S.Jevons (1835 - 1882), A.Mashall (1842 - 1924) và L.Walras (1834 – 1910). Mục đích chính là vạch ra nguyên lý cơ bản về sự vận động của chế độ tư bản để điều hướng hoạt động cạnh tranh. Kết quả của các nghiên cứu trong giai đoạn này, còn gọi là lý thuyết cạnh tranh của trường phái tân cổ điển, cho ra đời hướng tiếp cận cạnh tranh ở dạng tĩnh với bốn hình thức: Cạnh tranh hoàn hảo (Perfect Competition), cạnh tranh độc quyền (Monopolist Competition), độc quyền (Monopoly) và độc quyền nhóm (Oligopoly). Cụ thể:
- Cạnh tranh hoàn hảo: là thể chế kinh tế trong đó thị trường tự do hoàn toàn, tự động điều chỉnh cho cân đối và những người tham gia thị trường có đầy đủ thông tin như nhau. Do đó không có cá nhân hay nhà cung cấp nào có thể tác động lên giá cả của sản phẩm.
- Cạnh tranh độc quyền: là hình thức cạnh tranh mà ở đó có nhiều nhà sản xuất bán các sản phẩm được phân biệt với nhau và gần như thay thế sản phẩm khác.
- Độc quyền: chỉ có một nhà cung cấp duy nhất cho sản phẩm và gần như không có sản phẩm thay thế. Do đó, nhà sản xuất được quyền định đoạt giá cả hàng hóa, dịch vụ.
- Độc quyền nhóm: chỉ có một vài nhà cung cấp sản xuất ra một sản phẩm và một vài sản phẩm có khả năng thay thế. Như vậy, các nhà cung cấp có mối quan hệ gắn kết vì liên quan đến giá cả các sản phẩm.
Lý thuyết cạnh tranh hiện đại:
Nếu trường phái tân cổ điển xem cạnh tranh là một quá trình tĩnh thì ngược lại, các nhà kinh tế học thuộc trường phái hiện đại, trường phái Áo (tiêu biểu là Carl Menger, Eugen von Bohm – Bawerk, Friedrich von Wieser), cho rằng: tư tưởng chỉ đạo trong lý thuyết cạnh tranh hiện đại là loại bỏ cái nhìn về một thị trường cạnh tranh hoàn hảo lý tưởng nhưng phi hiện thực. Thay vào đó, cạnh tranh được xem như một quá trình động, phát triển và biến thiên không ngừng. Như vậy, chính sách giá cả không còn được quyết định dựa trên những giả định, tiền đề định sẵn mà phải được đặt trong điều kiện hiện có. Trong quá trình cạnh tranh, các yếu tố cạnh tranh được kết hợp với nhau được thực hiện với sự tiến bộ và sáng tạo kỹ thuật. Lý luận của trường phái cạnh tranh hiện đại hoàn toàn độc lập với lý luận về giá cả, giá trị hàng hóa của các trường phái trước kia.
Tóm lại, cạnh tranh đơn giản là hành vi tranh đua giữa các chủ thể và được xem là nỗ lực đưa ra phương thức tốt hơn so với đối thủ cạnh tranh của mình. Theo lý thuyết cạnh tranh hiện đại, thông tin thị trường là không đầy đủ. Các nhà sản xuất đóng vai trò phân bổ nguồn lực trong điều kiện bị giới hạn, đặt trong mối quan hệ tương quan với người tiêu dùng và người sở hữu nguồn lực trong dài hạn. Vì vậy, cạnh tranh thúc đẩy cải tiến, đổi mới sản phẩm, tái cấu trúc công ty, sắp xếp lại hoạt động sản xuất, tìm kiếm và phát triển thị trường mới cho sản phẩm,…
2.3.3 Đo lường khả năng cạnh tranh của NHTM
Đặc điểm cạnh tranh ở các NHTM:
Nhìn chung hoạt động cạnh tranh của NHTM cũng giống như hầu hết các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế khác, cũng tuân thủ theo các quy luật thị trường về cạnh tranh nhất định. Tuy nhiên, do NHTM có những đặc điểm khác biệt, đặc thù là kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ và dịch vụ ngân hàng, ngoài những đặc điểm chung, cạnh tranh của NHTM còn có một số điểm chuyên biệt cần lưu ý cụ thể là:
- Hoạt động cạnh tranh của NHTM đa phần phụ thuộc lớn vào sự tín nhiệm của khách hàng dành cho uy tín, thương hiệu của ngân hàng. Hầu hết các sản phẩm ngân hàng hiện nay không có nhiều sự khác biệt về đặc tính sản phẩm để lôi kéo
khách hàng. Vì vậy, việc thu hút khách hàng phần lớn xuất phát từ hoạt động nâng cao hình ảnh của ngân hàng như: chất lượng phục vụ, thái độ phục vụ, những tiện ích dành cho khách hàng,… Một khi khách hàng không có niềm tin, ngân hàng sẽ không thể tồn tại và phát triển được.
- Các đối thủ cạnh tranh NHTM có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Mối quan hệ này thể hiện qua việc ngân hàng là TCTC trung gian gắn kết các tổ chức kinh doanh khác trong nền kinh tế. Thông qua đó, các ngân hàng mở tài khoản, tổ chức thanh toán lẫn nhau phục vụ nhu cầu cho khách hàng. Đồng thời hỗ trợ, cung cấp thông tin giảm thiểu rủi ro trong hoạt động của nhau.
- Hoạt động cạnh tranh giữa các NHTM không mang tính chất làm suy yếu, thôn tính hay loại trừ lẫn nhau. Bởi sự suy yếu hay sụp đổ của một ngân hàng sẽ gây ra hậu quả vô cùng nghiêm trọng, có thể dẫn đến sự sụp đổ của cả một HTTC. Do đó, hoạt động cạnh tranh của NHTM phải lành mạnh, an toàn. Điều này buộc các ngân hàng phải ngày càng chuyên môn hóa, phát triển điểm mạnh trên một số lĩnh vực nhất định, giành lấy thị phần, đối tượng khách hàng hay sản phẩm chuyên môn hóa nhất định nào đó.
- Hoạt động ngân hàng với phạm vi rộng lớn, trong khu vực và mở rộng trên nhiều quốc gia trên thế giới. Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, hoạt động ngân hàng càng diễn ra sôi động và lớn mạnh. Do đó, cạnh tranh của NHTM cũng chịu sự chi phối rất nhiều từ các quy định, thông lệ của quốc tế.
- Cạnh tranh của NHTM chịu sự giám sát, quản lý trực tiếp và chặt chẽ của NHTW. Vì tính đặc thù và tầm quan trọng của một trung gian tài chính đặc biệt mà NHTM phải tuân thủ các quy định nghiêm ngặt để đảm bảo tính an toàn, tránh nguy cơ đổ vỡ mà vẫn đảm bảo hoạt động được hiệu quả.
Đo lường khả năng cạnh tranh của NHTM:
Xuất phát từ các lý thuyết về cạnh tranh, nhiều nhà kinh tế học đã cho ra đời các mô hình nhằm đo lường mức độ hay khả năng cạnh tranh và được ứng dụng trong lĩnh vực ngân hàng rất phổ biến. Trong đó tiêu biểu và nổi bật là chỉ số Lerner (1930), chỉ số H của Rosse – Panzar (1987) và chỉ số Boone (2008). Mỗi chỉ số
phản ánh mức độ cạnh tranh của ngân hàng ở mỗi cách thức tiếp cận khác nhau, có những ưu nhược điểm khác nhau nhưng đến nay đều được sử dụng trong khá nhiều nghiên cứu hàn lâm và thực nghiệm.
Chỉ số Lerner:
Năm 1934, trên tạp chí The Review of Economic Studies, Abba Lerner lần đầu tiên trình bày về một chỉ số phản ánh về sức mạnh độc quyền gọi là chỉ số Lerner (The Lerner Index of Monopoly Power) được tính bằng công thức như sau:
𝐿𝑒𝑟𝑛𝑒𝑟 𝐼𝑛𝑑𝑒𝑥 (𝐿) = 𝑃 − 𝑀𝐶
𝑃
Trong phương trình trên, P là giá của sản phẩm, MC là chi phí cận biên. Nếu tồn tại nền kinh tế cạnh tranh hoàn hảo thì giá bán bằng chi phí biên, do đó chỉ số này bằng 0. Khi giá bán lớn hơn chi phí biên thì chỉ số L sẽ lớn hơn 0. Độ lớn của L nằm giữa 0 và 1. Nếu khoảng cách giữa giá bán và chi phí cận biên càng lớn thì sức mạnh độc quyền của công ty càng lớn. Chỉ số L có tính chất đo lường sức mạnh độc quyền của công ty trong suốt quá trình hoạt động thực sự chứ không chứa đựng sự phản ánh tiềm năng về sức mạnh trong hành vi độc quyền của công ty.
Mặc dù được biết đến từ rất lâu nhưng khi nghiên cứu về cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng, chỉ số Lerner chỉ được ứng dụng cách đây không lâu bởi việc khó xác định chi phí biên (Thân Thị Thu Thủy và Phạm Thị Thơm, 2015). Cụ thể như sau:
P: Giá trung bình đầu ra của ngân hàng, được tính bằng tỷ số giữa tổng doanh thu và TTS (Carbo-Valverde và cộng sự, 2005).
MC: Chi phí biên của ngân hàng, không quan sát trực tiếp nên MC được ước lượng dựa trên hàm số tổng chi phí.
𝑀𝐶
=𝐶𝑜𝑠𝑡𝑖𝑡[β + β
ln Qit + ∑3 𝛷 ln W
+ υ trend ]
𝑖𝑡
𝑄𝑖𝑡 1 2
𝑘=1 k
k,it it
- Costit là tổng chi phí ngân hàng i vào thời điểm t, bao gồm chi phí tài chính và chi phí hoạt động
- Qit đại diện cho sản lượng đầu ra của ngân hàng và được đo lường giống như TTS.
- W1 là chi phí huy động vốn, bằng chi phí lãi chia cho tổng tiền gửi.
- W2 là chi phí lao động, bằng chi phí lao động chia cho TTS.
- W3 là chi phí vốn, bằng chi phí hoạt động khác chia cho TTS.
Chỉ số Lerner cho giá trị càng cao tức là ngân hàng có sức mạnh chi phối giá cao và điều kiện cạnh tranh thị trường sẽ giảm xuống.
Ngoài ra, trong một số nghiên cứu thực nghiệm gần đây, chỉ số Lerner điều chỉnh cũng được ứng dụng để đo lường khả năng cạnh tranh của ngân hàng. Chỉ số Lerner điều chỉnh được xác định như sau (Koetter và cộng sự, 2012):
𝐿𝑒𝑟𝑛𝑒𝑟 đ𝑖ề𝑢 𝑐ℎỉ𝑛ℎ = 𝜋 + 𝑇𝐶 − 𝑀𝐶 ∗ 𝑞
𝑃 + 𝑇𝐶
Π : Lợi nhuận của ngân hàng. TC: Tổng chi phí của ngân hàng. MC: Chi phí biên của ngân hàng. q: Tổng doanh thu đầu ra.
P: Giá trị trung bình đầu ra của ngân hàng.
Giá trị của chỉ số Lerner điều chỉnh càng lớn thể hiện sức cạnh tranh của ngân hàng càng yếu. Giá trị của Lerner điều chỉnh cũng nằm trong khoảng từ 0 đến 1.
Chỉ số H:
Hệ số cạnh tranh H được Panzar và Rosse đề xuất vào năm 1987 dùng để đo lường năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp ngân hàng. Chỉ số này dựa trên ý tưởng các ngân hàng sử dụng các chiến lược kinh doanh khác nhau dựa trên giá cả, để đáp ứng những thay đổi của chi phí đầu vào trong phạm vi thị trường mà ngân hàng hoạt động. Đây được xem là phương pháp phân tích kỹ thuật đầu tiên được dựa trên các lý thuyết mới về doanh nghiệp và áp dụng cho ngành ngân hàng. Mô hình này được xác định bởi phương trình như sau:
log TR = α + ∑ 𝛽𝑙𝑜𝑔𝜔 + ∑ 𝑙𝑜𝑔𝐶𝐹 + 𝑒𝑟𝑟𝑜𝑟
Với TR là tổng thu nhập, ω là các yếu tố chi phí đầu vào và CF là các biến kiểm soát. Các biến kiểm soát bao gồm: TTS, tỷ lệ VCSH/ TTS, Tỷ lệ nợ/ TTS (Chortareas và cộng sự, 2012; Andries và Căpraru, 2014).
H = ∑
Để đo lường năng lực cạnh tranh của ngành ngân hàng, Panzar và Rosse (1987) dùng hệ số cạnh tranh H, thể hiện cấu trúc cạnh tranh của ngân hàng trong thị trường.
𝑛
𝑖=1
𝛽𝑖
Trong đó β là hệ số của giá tiền gửi, giá lao động và giá vốn vật chất (Chortareas và cộng sự, 2012; Andries và Căpraru, 2014).
Nếu H Є (0,1): Cạnh tranh độc quyền Nếu H = 1: Cạnh tranh hoàn hảo
Nếu H < 1: Độc quyền.
Chỉ số Boone:
Chỉ số Boone tuy ra đời muộn hơn nhưng được đánh giá là chỉ số đo lường cạnh tranh mới với nhiều điểm mạnh. Chỉ số này được ưa chuộng và có nhiều nghiên cứu thực nghiệm ứng dụng để đo lường mức độ cạnh tranh trong ngân hàng. Phương trình đo lường theo chỉ số Boone:
Lnπ = α + βln(MCA) + ε Trong đó:
π: Lợi nhuận của ngân hàng. MCA: Chi phí biên của ngân hàng. β: Chỉ số Boone.
Theo Achaeck và Cihhák (2014), chi phí biên được xác định bằng tổng chi phí/tổng thu nhập. Tổng chi phí được xác định: chi phí lãi, chi phí lương và chi phí hoạt động khác.
Chỉ số Boone được xem xét theo giá trị tuyệt đối với giá trị càng cao thì mức độ cạnh tranh giữa các ngân hàng càng mạnh. Chỉ số này mang giá trị âm thể hiện nếu ngân hàng có chi phí biên càng lớn thì lợi nhuận sẽ giảm.
2.4 Đa dạng hóa trong hoạt động ngân hàng
ĐDH đóng vai trò quan trọng trong mọi hoạt động ngân hàng và là cách thức tối ưu hóa hiệu quả chiến lược cạnh tranh. Các NHTM thực hiện ĐDH về sản phẩm, dịch vụ,… với nỗ lực xây dựng hình ảnh đặc trưng cho mình, thu hút khách hàng,