Nhu Cầu Đa Dạng Hóa Sản Phẩm, Dịch Vụ Của Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam


62


Khi tỷ giá USD/VND giảm mạnh trên thị trường, đã có ít nhiều doanh nghiệp nhập khẩu có được lợi thế tương đối. Tuy nhiên điều này lại gây thiệt hại nặng nề cho các doanh nghiệp xuất khẩu, khi hàng hoá đã được xuất đi và doanh nghiệp được nhận lại đồng USD.

Một hợp đồng xuất khẩu được dự kiến sẽ đem về lợi nhuận cho doanh nghiệp, tuy nhiên sự biến động của tỷ giá như trong thời gian qua có thể làm cho doanh nghiệp ở vào tình trạng lãi giả và lỗ thực. Ngược lại, khi tỷ giá USD/VND tăng mạnh như thời gian vừa qua đã lại gây thiệt hại rõ ràng cho các nhà nhập khẩu, các doanh nghiệp xuất khẩu cũng đã chịu thiệt hại trong đợt tăng giá này khi kỳ vọng giá USD/VND sẽ tiếp tục tăng và quyết định không bán đồng USD mà thay vào đó là gửi lại đồng USD tại các ngân hàng và chờ đợi.

Và khi tỷ giá USD/VND đã giảm mạnh trở lại, doanh nghiệp vừa phải bán USD theo giá thấp và vừa phải mất đi phần chi phí cơ hội là phần chênh lệch lãi suất khi lãi suất gửi USD chỉ ở mức 6%/năm, trong khi lãi suất tiền đồng đã tăng lên mức trên 18%/năm. Thậm chí khi tính thanh khoản trên thị trường giảm mạnh, có thời điểm doanh nghiệp nhập khẩu chấp nhận thiệt hại để mua USD, vì phải thanh toán cho nhà xuất khẩu theo cam kết nhưng nguồn USD tại các ngân hàng lại không đáp ứng được, điều này dẫn đến việc chậm trả và gây thiệt hại về uy tín của doanh nghiệp.

Như vậy, khi tỷ giá lên doanh nghiệp cũng thiệt hại và khi tỷ giá xuống doanh nghiệp cũng chịu thiệt hại.

Vì vậy, phòng ngừa rủi ro tỷ giá là một việc cần làm ngay, sự ổn định về tỷ giá hối đoái sẽ giúp cho doanh nghiệp an tâm hơn trong hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao tính cạnh tranh trên thị trường. Doanh nghiệp không chỉ cố định tỷ giá mà với các sản phẩm ngoại hối của các ngân hàng cung cấp, doanh nghiệp còn có cơ hội hưởng lợi trên sự biến động của thị trường.

Ví dụ như chỉ với một hợp đồng mua USD kỳ hạn đơn giản, với tỷ giá kỳ hạn tương ứng với tỷ giá giao ngay được các ngân hàng công bố, doanh nghiệp có thể


63


chốt được mức tỷ giá mong muốn mà không cần quan tâm đến sự biến động của thị trường trong một khoảng thời gian dài sau đó. Hoặc với một sản phẩm quyền chọn, doanh nghiệp có thể chọn bất kỳ tỷ giá nào và chỉ với một khoản phí hợp lý, doanh nghi ệp vừa bảo hiểm được tỷ giá vừa có cơ hội hưởng lợi khi tỷ giá trên thị trường biến động theo hướng có lợi cho doanh nghiệp. Các doanh nghiệp nên xem các sản phẩm bảo hiểm tỷ giá như các công cụ để bảo vệ chính mình mà sự cần thiết của nó được ví như việc mua một chiếc bình cứu hoả đặt trong nhà...

2.1.1.2. Nhu cầu đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ của các Ngân hàng thương mại Việt Nam

Hiện nay Việt Nam đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), tài chính

– ngân hàng là một trong các lĩnh vực Việt Nam cam kết mở cửa. Trong tương lai không xa, sẽ có nhiều ngân hàng 100% vốn nước ngoài hoạt động ở Việt Nam và như vậy sự cạnh tranh trên thị trường tài chính – ngân hàng sẽ trở nên ngày càng mạnh mẽ. Muốn tồn tại và cạnh tranh được đối với các ngân hàng nước ngoài vốn đã có tiềm lực về tài chính, nền tảng công nghệ hiện đại và kinh nghiệm lâu đời, một trong các biện pháp để mà các NHTM Việt Nam phải áp dụng đó là đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng. Như chúng ta đã biết, hiện nay tại các NHTM Việt Nam, các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng còn khá nghèo nàn, đơn giản, chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của khách hàng là các doanh nghiệp cũng như khách hàng thể nhân. Vì vậy, việc triển khai và phát triển nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ là một yêu cầu bức thiết đặt ra cho các NHTM phải nỗ lực thực hiện trong tiến trình hội nhập, đa dạng hóa các sản phẩm ngân hàng, bởi vì quyền chọn tiền tệ là một nghiệp vụ có thể nói là rất phổ biến và được ưa chuộng trên thế giới vì tính ưu việt và linh hoạt của nó. Bên cạnh đó, với việc triển khai thành công nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ, các ngân hàng sẽ thu được phí quyền chọn tiền tệ (premium) và như vậy sẽ đem lại lợi nhuận từ nghiệp vụ này, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng. Nhìn vào bảng 2.1 ta có thể thấy vai trò của sản phẩm phái sinh nói chung và quyền chọn tiền tệ nói riêng.


64


Bảng 2.1: Cơ cấu sản phẩm phái sinh trong tổng doanh thu và lợi nhuận của các Ngân hàng thương mại



1995

2000

2006

2007

Tổng doanh thu thực hiện

100

100

100

100

Trong đó

Sản phẩm phái sinh

11,7

15,4

17,5

19,5

Tổng lợi nhuận

100

100

100

100

Trong đó

Sản phẩm phái sinh

10,2

16,5

19,9

21,5

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 159 trang tài liệu này.

Nghiên cứu phát triển nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ tại các ngân hàng thương mại Việt Nam - 9

Nguồn [5]


2.1.2. Thực trạng thị trường quyền chọn tiền tệ tại Việt Nam hiện nay


2.1.2.1. Về thị trường công cụ phái sinh nói chung


Giao dịch tài chính tiền tệ là lĩnh vực chưa có sự xuất hiện của các nhà bảo hiểm bởi tính biến động khôn lường của nó. Các chủ thể tham gia không còn cách nào khác ngoài việc tự bảo hiểm cho mình bằng việc chuyển hẳn hoặc san sẻ một phần rủi ro cho thị trường bằng các Công cụ tài chính phái sinh. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng quát, mức độ áp dụng các Công cụ phái sinh ở Việt Nam còn rất hạn chế. Nhiều ý kiến cho rằng, xuất phát điểm nền kinh tế lạc hậu chưa cho phép chúng áp dụng các kỹ thuật tài chính hiện đại. Nói cách khác, thói quen và tập quán kinh doanh là những cản trở lớn đối với quá trình phổ biến các Công cụ tài chính phái sinh ở Việt Nam.

Giao dịch kỳ hạn xuất hiện với tư cách là công cụ tài chính phái sinh đầu tiên ở Việt Nam theo quyết định số 65/1999/QĐ-NHNN7 ngày 25/2/1999. Các giao dịch


65


kỳ hạn được thực hiện trong hợp đồng mua bán USD và VND giữa NHTM với doanh nghiệp xuất nhập khẩu hoặc với các NHTM khác được phép của Ngân hàng nhà nước. Tuy nhiên, Hợp đồng kỳ hạn ít được sử dụng, một phần là do thị trường liên ngân hàng ở Việt Nam chưa phát triển, một phần do những hạn chế vốn có của nó trong việc phòng chống rủi ro tỉ giá và những hạn chế của Ngân hàng Nhà nước. Vì thế, các giao dịch kỳ hạn chỉ chiếm khoảng 5-7% khối lượng giao dịch của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng [5].

Giao dịch hoán đổi cũng xuất hiện khá sớm theo quyết định số 430/QĐ- NHNN13 ngày 24/12/1997 và sau này là quyết định số 893/2001/QĐ-NHNN ngày 17/7/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên đây chỉ là những giao dịch hoán đổi thuận chiều giữa Ngân hàng Nhà nước và NHTM. Nó chỉ được sử dụng trong trường hợp các NHTM dư thừa ngoại tệ và khan hiếm VND.

Các công cụ phái sinh lãi suất và tỷ giá ngoại tệ tiếp tục xuất hiện ở Việt Nam và được các ngân hàng sử dụng do nhu cầu nội tại của các NHTM nhằm theo kịp chuẩn mực hoạt động ngân hàng quốc tế. Ngân hàng Nhà nước đã cho phép các NHTM thực hiện một số nghiệp vụ phái sinh nhằm phòng ngừa rủi ro lãi suất và rủi ro tỷ giá. Theo quyết định số 1133/QĐ- NHNN ngày 30/09/2003 về quy chế thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất cho phép mở rộng danh mục các NHTM và các TCTD, các doanh nghiệp được sử dụng công cụ hoán đổi lãi suất. Hoán đổi lãi suất được thực hiện đối với cả VND và ngoại tệ giữa các ngân hàng với doanh nghiệp vay vốn tại ngân hàng; giữa ngân hàng với những doanh nghiệp vay vốn tại các tổ chức TCTD khác, kể cả vay vốn nước ngoài; giữa các ngân hàng trong nước với nhau và giữa các NHTM trong nước với các TCTD nước ngoài. Trên cơ sở nới lỏng quản lý của Ngân hàng Nhà nước, nhiều NHTM đã triển khai cung cấp Hợp đồng hoán đổi lãi suất cho các doanh nghiệp, tìm kiếm đối tác là các TCTD nước ngoài để ký kết hợp tác. Tuy nhiên, giao dịch phái sinh trong đó có hoán đổi lãi suất được coi là hoạt động ngoại bảng của ngân hàng do đó hướng dẫn hạch toán từ phía Ngân hàng Nhà nước đối với các nghiệp vụ này đang được xem là điều kiện đủ để các NHTM đẩy mạnh cung cấp dịch vụ này cho khách hàng.


66


Từ khi Ngân hàng Nhà nước cho phép thực hiện nghiệp vụ hoán đổi lãi suất trên thị trường Việt Nam (từ tháng 1/2003), đã có một só ngân hàng như ABN, Citibank thực hiện hoán đổi lãi suất trong phạm vi đồng USD từ ngày 1/3/2005 tới 2/2006. Tuy nhiên, giao dịch hoán đổi lãi suất giữa 2 đồng tiền USD và VND (hoán đổi lãi suất chéo) đã được thực hiện, từ trước khi có quy định chính thức của ngân hàng nhà nước. Cho tới lần đầu tiên, khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép, HSBC đã cung cấp gói hoán đổi tiền Đồng cho một công ty đa quốc gia với số vốn lên tới 15 triệu USD trên tại trường Việt Nam. Theo đó, HSBC sẽ đưa VND và nhận USD từ khách hàng, tới tháng 12/2007, HSBC sẽ đưa USD và nhận lại VND từ khách hàng. Với giao dịch này, khách đã đạt được mức lãi suất cạnh tranh nhất trên thị trường nội địa cho việc vay vốn tiền Đồng kỳ hạn 3 năm mà không chịu bất cứ một rủi ro nào về tỷ giá USD/VND.

Chính hành động của HSBC, tạo ra nền tảng phát triển cho các giao dịch hoán đổi sau này. Ngân hàng Standard Chartered chi nhánh tại Việt Nam thực hiện hoán đổi lãi suất chéo giữa hai đồng tiền chéo đối với các khoản vay ngoại tệ của khách hàng khi khách hàng vay ngoại tệ. Và trong tương lai, Standard Chartered sẽ còn cung cấp nhiều sản phẩm phái sinh nữa trên thị trường Việt Nam, hứa hẹn tương lai phát triển thị trường.

Ở một mức cao hơn, các công cụ lai tạp có nguồn gốc từ hoán đổi như hoán đổi lãi suất cộng dồn, hoán đổi lãi suất kèm theo điều kiện quyền chọn, hoán đổi lãi suất bắt đầu thực hiện trong tương lai …cũng đã xuất hiện và triển khai trên thị trường ngoại hối trong thời gian gần đây. Điều đặc biệt là các hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng đã được thí điểm áp dụng tại Việt Nam theo công văn 3324/NHNN- CSTT, tháng 4/2006 Ngân hàng Nhà nước cho phép HSBC chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh thực hiện. Mặc dù là một loại hoán đổi nhưng hoán đổi rủi ro tín dụng thực sự lại giống một chính sách bảo hiểm hơn. Tức một bên nắm giữ trái phiếu hoặc các khoản vay, định kỳ sẽ thanh toán cho bên kia. Trường hợp trái phiếu bị đánh giá thấp hay các khoản vay trên bị vỡ nợ, bên bảo hiểm ở đây là HSBC sẽ trả cho bên đối tác, khách hàng các khoản bù trừ lỗ.


67


Sản phẩm hoán đổi rủi ro tín dụng của HSBC Việt Nam chỉ gắn với rủi ro tín dụng của các loại trái phiếu do chính phủ hoặc các doanh nghiệp Việt Nam phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế, các khoản vay dài hạn của doanh nghiệp Việt nam tại các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam. Khách hàng chuyển nhượng rủi ro tín dụng cho HSBC là các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam và bên nhận chuyển nhượng là các chi nhánh HSBC ở nước ngoài. Thời hạn của giao dịch không quá 5 năm. Khách hàng mua loại công cụ này cũng giống như thực hiện một khoản đầu tư gián tiếp. Việc tiếp cận với các công cụ này cho phép nhà đầu tư có cơ hội tìm kiếm những mức lợi nhuận cao hơn so với hoạt động tín dụng tiền gửi bình thường, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn của các TCTD. Hơn nữa, việc sử dụng các công cụ mới này còn góp phần nâng cao mức độ tín nhiệm của Chính phủ và các doanh nghiệp Việt Nam khi phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế.

Quyền chọn ngoại tệ, lãi suất và vàng dường như là những công cụ phái sinh được thị trường hoan nghênh và đón nhận nhiều nhất do những ưu điểm vốn có của nó trong bối cảnh lãi suất và tỷ giá và giá vàng luôn ở trạng thái tăng liên tục. Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV) là ngân hàng đầu tiên được phép thực hiện giao dịch quyền chọn lãi suất. Các giao dịch quyền chọn lãi suất được phép thực hiện đối với những khoản cho vay và đi vay trung hạn (dưới 5 năm) bằng USD hoặc bằng EURO và chỉ được thực hiện đối với các doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam, các NHTM hoạt động ở Việt Nam được Ngân hàng Nhà nước cho phép và các ngân hàng ở nước ngoài. Sau BIDV là hàng loạt các NHTM khác, bao gồm cả NHTM cổ phần cũng được cho phép thực hiện nghiệp vụ này.

Bên cạnh quyền chọn lãi suất, quyền chọn ngoại tệ cũng được nhiều ngân hàng cung cấp, điển hình là BIDV, Eximbank, ACB, Techcombank, Agribank, Citibank, Vietcombank, ICB, và ngân hàng HSBC chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh. Nguyên tắc chính của loại quyền chọn này là các doanh nghiệp và cá nhân được quyền đặt mua hay đặt bán USD với VNĐ thông qua một tỷ giá do khách hàng tự chọn, được gọi là tỷ giá thực hiện. Tới nay, đã có rất nhiều ngân hàng được phép của Ngân hàng nhà nước thực hiện các nghiệp vụ quyền chọn. Đặc biệt, Ngân


68


hàng nhà nước cũng đã cho phép thực hiện các quyền chọn tiền Đồng tại BIDV, Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu, Ngân hàng Thương mại cổ phần Quốc tế. Với nghiệp vụ này, chắc chắn tương lai sẽ được mở rộng bởi khi đó VND sẽ có cơ hội tiếp cận với thị trường tài chính thế giới. Vị thế của VND và Việt Nam cũng qua đó mà tăng lên. Tuy nhiên, vì đang trong giai đoạn thí điểm nên các ngân hàng này bị giới hạn bởi thời gian thực hiện. Nhìn chung, hoạt động này đang đem lại một cơ cấu sản phẩm hiện đại cho các ngân hàng trong điều kiện hội nhập. Hơn nữa, nhu cầu của khách hàng đối với các giao dịch Quyền chọn đang có xu hướng tăng, do vậy Ngân hàng nhà nước đã tiến hành gia hạn thí điểm hợp đồng các nghiệp vụ này.Quyền chọn USD và VNĐ đáp ứng cho cả nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu trong đó quyền chọn mua áp dụng cho nhà nhập khẩu và quyền chọn bán áp dụng cho nhà xuất khẩu.

Điểm lại những mốc chính xuất hiện của các công cụ phái sinh ở Việt Nam, dễ nhận thấy rằng nó chưa được thị trường đón nhận như là công cụ không thể thiếu trong phòng ngừa rủi ro. Thực trạng đó đặt ra nhiều câu hỏi. Phải chăng các doanh nghiệp chưa thực sự có nhu cầu phòng chống rủi ro? Phải chăng khoảng cách giữa mong muốn phòng ngừa rủi ro của các doanh nghiệp và các công cụ phái sinh còn quá lớn? Phải chăng sự hiểu biết của các doanh nghiệp đối với các công cụ phái sinh còn hạn chế nên dẫn đến những chính sách sử dụng nó còn yếu kém? Phải chăng điều kiện kinh tế, đặc biệt là sự phát triển ở Việt Nam còn hạn chế? Phải chăng là việc hạch toán những nghiệp vụ ngoại bảng này còn nhiều bất cập khiến các ngân hàng còn nhiều lúng túng trong việc triển khai các dịch vụ phái sinh? Phải chăng những quy định pháp lý hiện nay còn hạn chế sự hoạt động của các công cụ phái sinh?

2.1.2.2. Về thị trường quyền chọn tiền tệ nói riêng


Thị trường quyền chọn của Việt Nam được triển khai đầu tiên với quyền chọn tiền tệ, mà cụ thể là quyền chọn ngoại tệ. Trong giai đoạn đầu, các NHTM muốn thực hiện giao dịch quyền chọn tiền tệ phải là ngân hàng đã được phép kinh doanh


69


ngoại hối, vốn tự có tối thiểu là 200 tỷ VND, kinh doanh ngoại tệ có lãi trong 5 năm gần nhất và doanh số mua bán ngoại tệ của năm trước tối thiểu là 1 tỷ USD. Nếu đủ các điều kiện đó, NHTM phải lập ra quy trình nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ và trình cho Thống Đốc Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản cho thực hiện thí điểm.

Theo công văn đề nghị số 395/EIB-KD/2002 của Ngân hàng TMCP Xuất Nhập Khẩu Việt Nam, ngày 12/02/2003, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có công văn trả lời số 135/NHNN-QLNH cho phép Eximbank là ngân hàng đầu tiên trong cả nước được thực hiện thí điểm nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ với các quy định cụ thể như sau:

Đồng tiền giao dịch: chỉ giao dịch bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi. Không được giao dịch bằng đồng Việt Nam

Giới hạn số dư cao nhất: 500,000USD (Năm trăm ngàn đô la Mỹ) hoặc ngoại tệ khác có giá trị tương đương

Chỉ thực hiện với các doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam


Trường hợp thanh toán ngoại tệ cho nước ngoài, doanh nghiệp phải xuất trình cho Ngân hàng chứng từ theo các quy định quản lý ngoại hối hiện hành.

Thời hạn của giao dịch: từ 7 ngày đến tối đa 3 tháng


Cho phép Eximbank được thực hiện thí điểm giao dịch quyền chọn trong thời gian là 6 tháng.

Ngoài ra, Eximbank phải có trách nhiệm báo cáo chậm nhất là 10h sáng ngày làm việc tiếp theo phải báo cáo đầy đủ tình hình thực hiện các giao dịch quyền chọn và các giao dịch đối ứng phòng ngừa rủi ro của ngày hôm trước cho Ngân hàng Nhà nước. Chậm nhất sau 5 ngày làm việc đầu tháng sau, Eximbank phải báo cáo tổng hợp tình hình giao dịch nghiệp vụ này trong tháng trước và những kiến nghị.

Xem tất cả 159 trang.

Ngày đăng: 18/04/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí