Cơ Sở Lý Thuyết Về Tác Động Của Đa Dạng Hóa Và Cạnh Tranh Đến Ổn Định Ngân Hàng


Income diversification : Chi số đo lường ĐDH thu nhập. Chỉ số này nằm trong

khoảng (0,1), càng cao thì mức độ ĐDH của ngân hàng càng tăng.

Sau đó, Mercieca và cộng sự (2007) đề xuất chỉ số Herfindahl Hirschmann Index (HHI) đo lường cho mỗi ngân hàng. Chỉ số này cũng được sử dụng trong nhiều nghiên cứu sau đó (Elsas và cộng sự, 2010; Sanya và Wolfe, 2011; Meslier và cộng sự, 2014; Amidu và Wolfe, 2013).

𝑁𝑂𝑁 2 𝑁𝐸𝑇 2

HHIREV = (𝑁𝐸𝑇𝑂𝑃)

Trong đó:

+ ( )

𝑁𝐸𝑇𝑂𝑃

NON : Thu nhập ngoài lãi, bao gồm nguồn thu từ phí, hoa hồng, các hoạt động dịch vụ, kinh doanh khác.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 221 trang tài liệu này.

NET : Thu nhập lãi thuần.

NETOP : Thu nhập ròng, được tính bằng tổng của NON và NET. Chỉ số này càng cao, phản ánh mức độ ĐDH của ngân hàng càng thấp.

Tác động của đa dạng hóa và cạnh tranh đến ổn định của ngân hàng thương mại: Nghiên cứu tại Việt Nam - 10

Nhìn chung, về bản chất hai chỉ số đo lường trên là hoàn toàn giống nhau. Chúng thể hiện mức độ ngân hàng ĐDH nguồn thu nhập từ nhiều hoạt động kinh doanh khác nhau, từ những hoạt động truyền thống là cấp tín dụng đến các hoạt động kinh doanh phi lãi khác như: cung ứng các dịch vụ thanh toán, chuyển tiền, kinh doanh trên thị trường ngoại hối, mua bán các loại chứng khoán như: chứng khoán kinh doanh, chứng khoán đầu tư, hoạt động góp vốn, mua cổ phần,…và các hoạt động khác.

2.5 Cơ sở lý thuyết về tác động của đa dạng hóa và cạnh tranh đến ổn định ngân hàng

2.5.1 Cơ sở lý thuyết về tác động của đa dạng hóa đến ổn định ngân hàng

Các lý thuyết về trung gian tài chính hàm ý việc ngân hàng gia tăng lợi nhuận theo quy mô có liên quan đến hoạt động ĐDH. Khi ngân hàng mở rộng cung cấp nhiều sản phẩm dịch vụ sẽ tạo ra nhiều nhu cầu và từ đó giúp gia tăng thu nhập cho ngân hàng. Cụ thể hơn thông qua ĐDH, L.Baele (2000) chỉ ra mối quan hệ tích cực


giữa giá trị thương hiệu và mức độ ĐDH, điều đó có nghĩa là ĐDH có thể cải thiện lợi nhuận ngân hàng trong tương lai. Các ngân hàng được phép ĐDH bằng cách kết hợp kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm và các hoạt động tài chính khác (được coi như một tập đoàn tài chính). Trong thực tế, các nhà nghiên cứu nhìn vào các nguồn thu nhập ngoài lãi để đo lường mức độ ĐDH trong hoạt động ngân hàng. Đây là nguồn thu nhập từ việc cung cấp hàng loạt các dịch vụ tài chính từ bảo lãnh phát hành, phân phối chứng khoán, các chính sách bảo hiểm, các quỹ hỗ tương,… Điều này giúp làm giảm chi phí hoạt động, ngoài ra việc chia sẻ các yếu tố đầu vào cũng giúp tiết kiệm chi phí tiềm năng, từ đó giúp lợi nhuận ngân hàng gia tăng (Beaele, 2007; Stiroh, 2004).

Việc ủng hộ cho luận điểm về tác động tích cực của ĐDH đến ổn định ngân hàng còn được giải thích bởi hoạt động ngân hàng lan rộng sang các lĩnh vực phi truyền thống là do các hoạt động này thường ít nhạy cảm với biến động lãi suất trong nền kinh tế. Hơn nữa, các ngân hàng trước khi ĐDH sẽ xem xét tiềm lực về vốn, con người và công nghệ của mình để làm sao hoạt động ĐDH được thực hiện hiệu quả, tạo ra thêm lợi nhận đủ bù đắp các chi phí đã bỏ ra.

Tuy nhiên, tồn tại quan điểm trái chiều cho rằng ĐDH không mang lại lợi ích cho ngân hàng mà còn làm ngân hàng trở nên bất ổn hơn. Lập luận này phân tích các chi phí liên quan làm gia tăng mức độ phức tạp của ngân hàng có thể không được bù đắp bởi lợi ích do ĐDH mang lại. Ngoài ra, khi các nguồn thu nhập từ các hoạt động phi truyền thống có mối tương quan với biến động lãi suất cũng làm cho hoạt động ĐDH không hiệu quả dẫn đến tiềm ẩn nguy cơ bất ổn cho ngân hàng.

2.5.2 Cơ sở lý thuyết về tác động của cạnh tranh đến ổn định ngân hàng

Cạnh tranh trong ngành ngân hàng ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp, đến sự bình ổn khu vực tài chính và cả nền kinh tế với hướng tác động chưa rõ ràng. Theo quan điểm thuyết vị thế thị trường (Market power view) (Boyd và De Nicolo, 2005), vị thế cao trên thị trường cho phép ngân hàng đặt lãi suất vay cao hơn, dẫn đến tăng khả năng xuất hiện rủi ro đạo đức (moral hazard) và lựa chọn bất lợi (adverse selection) vì chỉ có các công ty có rủi ro cao mới chấp


nhận mức lãi suất cho vay cao, nên cũng có thể gia tăng rủi ro thu hồi vốn/lợi nhuận cho ngân hàng.

Mối quan hệ giữa cạnh tranh và ổn định ngân hàng đã thảo luận trong giới học thuật và các TCTC trong hai thập kỷ qua, đặc biệt kể từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu gần đây vào năm 2007. Tuy nhiên, vấn đề cạnh tranh giữa các NHTM luôn luôn gây ra nhiều tranh cãi. Có hai quan điểm đối lập trong các nghiên cứu trước về cạnh tranh và ổn định ngân hàng. Quan điểm cạnh tranh - dễ tổn thương: tranh luận rằng có mối quan hệ ngược chiều giữa cạnh tranh và ổn định ngân hàng, vì cạnh tranh cao làm giảm sức mạnh thị trường của ngân hàng và lợi nhuận biên. Do đó, nó sẽ làm tăng rủi ro cho ngân hàng. Còn quan điểm cạnh tranh- ổn định: lập luận rằng sự cạnh tranh càng nhiều dẫn đến sự ổn định càng cao.

Stiglitz và Weiss (1981) tìm thấy mối quan hệ ngược chiều giữa cạnh tranh (đo bằng số lượng ngân hàng tham gia) và mức độ rủi ro trong ngành ngân hàng. Ngoài ra còn có tranh luận về khả năng các ngân hàng lớn được nhận ưu tiên “quá lớn để sụp đổ” (too big to fail) mà các ngân hàng nhỏ không có được. Sự bảo hộ này làm tăng hành vi chấp nhận rủi ro tại các ngân hàng lớn (Mishkin, 1999).

Mặt khác, khi xảy ra bất cân xứng thông tin, cạnh tranh càng cao làm giảm khả năng tiếp cận vốn cho doanh nghiệp do làm các ngân hàng mất động lực xây dựng mối quan hệ tín dụng (Petersen và Rajan, 1994) và thu thập thông tin (Hauswald và Marquez, 2006). Ngược lại, khi cạnh tranh thấp, các ngân hàng có vị thế cao có xu hướng đầu tư tìm hiểu, tạo lập quan hệ cho vay thân thiết với các doanh nghiệp vì khi đó các ngân hàng này dễ khai thác các lợi ích từ việc hỗ trợ các doanh nghiệp. Besanko và Thakor (2004) cho thấy tăng cạnh tranh làm giảm lợi thế thông tin từ quan hệ cho vay và làm tăng hành vi chấp nhận rủi ro (risk taking) của ngân hàng.

Ngoài ra, môi trường cạnh tranh cũng làm cho các ngân hàng nhận được ít thông tin hơn về các khách hàng vay vốn. Nghiên cứu của Boot và cộng sự (1993), Allen và Gale (2000, 2004) cho thấy ngân hàng vì thế sẽ gặp khó khăn khi kiểm tra


hồ sơ tín dụng của khách hàng. Kết quả là gia tăng rủi ro tín dụng hơn cho ngân hàng và tiểm ẩn nguy cơ bất ổn cao.

Ngược lại, trong môi trường ít cạnh tranh, ngân hàng cung cấp tín dụng dễ dàng hơn cho các khoản vay lớn, điều này làm gia tăng xác suất ngân hàng bị sụp đổ (Caminal và Matutes, 2002). Nguyên nhân có thể lý giải rằng hệ thống ngân hàng độc quyền cao cho phép các ngân hàng áp dụng lãi vay cao, đồng nghĩa khuyến khích người dân chấp nhận rủi ro lớn hơn, làm cho nợ xấu có thể gia tăng. Tuy nhiên, lãi vay cao cũng mang lại thu nhập từ lãi cao cho các ngân hàng (Martinez – Miera và Repullo, 2010). Chính mối tương quan bù trừ này có thể tạo ra quan hệ phi tuyến giữa cạnh tranh và ổn định ngân hàng.

Bên cạnh đó, khi ít cạnh tranh các ngân hàng có mức lợi nhuận cao, tạo điều kiện tích lũy vốn để ngăn ngừa các đợt sốc bất thường, giảm động cơ chấp nhận dự án rủi ro cao, làm giảm biến động tăng trưởng kinh tế (Matutes và Vives, 2000). Ngược lại, khi ngành ngân hàng cạnh tranh khốc liệt, các ngân hàng có mức lợi nhuận biên thấp, dự trữ vốn không đủ và dễ bị tổ thương trong các cuộc khủng hoảng. Ngoài ra, với sự gia tăng trong số lượng các ngân hàng sẽ làm tăng số lượng ngân hàng bị thua lỗ khi cho vay các doanh nghiệp theo lý thuyết “Lời nguyền cho người thắng cuộc” (Winner’s curse). Nghiên cứu thực nghiệm của Jimezez và cộng sự (2013) cho thấy mức tập trung ngân hàng cao (vị thế cao) gắn liền với khả năng khủng hoảng và mức độ rủi ro ngành thấp hơn.

2.6 Tổng quan các nghiên cứu thực nghiệm

2.6.1 Tổng quan các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của đa dạng hóa đến ổn định ngân hàng

Còn nhiều tranh cãi về việc liệu ĐDH có thực sự mang lại lợi nhuận và nâng cao vị thế, năng lực cạnh tranh, hạn chế được rủi ro hay phát sinh thêm rủi ro và chiến lược ĐDH có phải là giống nhau đối với mỗi quốc gia khác nhau có những diễn biến khác nhau.


Về quan điểm đa dạng hóa thật sự mang lại lợi ích cho ngân hàng:

Nhóm tác giả Aisha Mohammed, Sissy Mohammed, Amodu Joshua, Yindenaba Abor (2016) đã tiến hành nghiên cứu về ảnh hưởng của ĐDH thu nhập và địa lý đến rủi ro và lợi nhuận ngân hàng tại các ngân hàng ở các quốc gia Châu Phi. Nhóm tác giả đã cho thấy kết quả thú vị về việc ĐDH giúp cải thiện lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro cho các ngân hàng này. Cụ thể, khi các ngân hàng tại các quốc gia Châu Phi ĐDH địa lý sẽ giúp tạo ra cơ hội ĐDH thu nhập bởi cung cấp nhiều sản phẩm và dịch vụ ở các quốc gia bên ngoài lãnh thổ. Từ đó rủi ro ngân hàng được cải thiện rõ rệt.

Tương tự, trong nghiên cứu về ảnh hưởng của ĐDH thu nhập đến rủi ro và lợi nhuận của các ngân hàng ở Philippin giai đoạn 1999-2005, Meslier và cộng sự (2013) nhận thấy khi các ngân hàng gia tăng các hoạt động phi lãi sẽ làm giảm rủi ro cho ngân hàng, đồng thời lợi nhuận ngân hàng cũng được cải thiện. Bên cạnh đó, hoạt động đầu tư trên thị trường chứng khoán cũng giúp HQKD ngân hàng tăng thay vì tập trung quá nhiều vào hoạt động cho vay vốn là hoạt động truyền thống của ngân hàng trước đây.

Tiếp theo đó, năm 2016, Meslier và cộng sự thực hiện nghiên cứu đo lường tác động của ĐDH thu nhập đến HQKD ngân hàng ở các nền kinh tế mới nổi. Kết quả nhấn mạnh khi các ngân hàng chuyển đổi sang hoạt động phi lãi sẽ làm tăng lợi nhuận cho ngân hàng và điều chỉnh giảm rủi ro, đặc biệt khi ngân hàng tiếp cận với các doanh nghiệp nhỏ. Bên cạnh đó, các ngân hàng cũng gia tăng thu nhập khi tham gia vào thị trường chứng khoán. Nghiên cứu trên cũng gợi ý định hướng về mặt chính sách nhằm thúc đẩy ĐDH, giảm thiểu rủi ro, tăng cường chính sách cho vay đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Một nghiên cứu tương đồng với nhóm tác giả Meslier và cộng sự (2013) được tìm thấy là của Lee và cộng sự (2013) về mối quan hệ giữa ĐDH thu nhập với HQKD ngân hàng, trong đó có xét đến ảnh hưởng bởi yếu tố cấu trúc tài chính và hàng loạt cải cách tài chính như: kiểm soát tín dụng, kiểm soát về lãi suất, giám sát ngân hàng,…Nghiên cứu sử dụng mẫu dữ liệu bảng từ 29 quốc gia Châu Á – Thái


Bình Dương trong khoảng từ 1995 – 2009 cho tổng số 2.372 ngân hàng. Qua đó, hiệu quả ngân hàng được gia tăng thông qua hoạt động ĐDH.

Một nghiên cứu khác bổ sung cho luận điểm cho rằng ĐDH thật sự mang lại lợi ích cho ổn định tài chính của Mathuva (2015). Tác giả nghiên cứu trên 212 tổ chức tín dụng và tiết kiệm ở Kenya giai đoạn 2008 – 2013 về tác động của ĐDH thu nhập đến hoạt động tài chính. Nghiên cứu cung cấp bằng chứng thực nghiệm về việc lợi nhuận ngân hàng gia tăng phần lớn dựa vào các hoạt động phi lãi. Ngoài ra, quy mô ngân hàng cũng ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa ĐDH thu nhập và hiệu quả tài chính. Nghiên cứu hàm ý nên có một chiến lược ĐDH thu nhập thận trọng dựa trên quy mô vì sẽ gây ảnh hưởng đáng kể đến HQKD và ổn định ngân hàng.

Tuy nhiên, khi nghiên cứu giai đoạn khủng hoảng 2007-2009, Fang và Van Lelyveld (2014) lại hoài nghi về việc liệu ngân hàng có gia tăng thu nhập từ ĐDH phạm vi địa lý (Geographic diversification) hay không, mặc dù việc này đóng vai trò quan trọng đối với một số tập đoàn ngân hàng xuyên quốc gia. Hai tác giả sử dụng mẫu nghiên cứu là 49 tập đoàn ngân hàng nhưng số liệu được lấy từ các công ty con của các tập đoàn này ở các quốc gia khác nhau. Các công ty con được xem là tài sản của ngân hàng và thể hiện mức độ ĐDH phạm vi địa lý. Mục đích của nghiên cứu là nhắm đến việc xem xét liệu việc ĐDH có hay không giảm thiểu rủi ro tín dụng, là loại rủi ro đáng kể nhất trong hoạt động ngân hàng. Kết quả thực nghiệm nêu ra tỷ lệ giảm của rủi ro tín dụng là 1.1% và các loại rủi ro khác từ 0% đến 8%.

Bên cạnh đó, một số tác giả khá đồng tình với việc ngân hàng khai thác thế mạnh về ĐDH. Elsas và cộng sự (2010) cho thấy kết quả trong nghiên cứu của mình về ảnh hưởng của ĐDH thu nhập đến giá trị ngân hàng rằng ĐDH làm gia tăng lợi nhuận của các ngân hàng ở 9 quốc gia trong giai đoạn 1996-2008, kể cả trải qua khủng hoảng kinh tế.

Một nghiên cứu của nhóm tác giả Claudi Curi, Ana Lozano-Vivas, Valentin Zelenyuk (2015) lại xem xét ảnh hưởng của ĐDH mà các ngân hàng nước ngoài thực hiện trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế đến HQKD. Phát hiện ở đây là trong


cuộc khủng hoảng, việc các chi nhánh ngân hàng này tiến hành ĐDH lại khai thác được lợi thế gia tăng HQKD. Tuy nhiên, điều này lại không đúng trong giai đoạn trước khủng hoảng đối với các ngân hàng nước ngoài tại Luxembourg.

Bằng cách đưa ra các giả thuyết khác nhau dựa trên mô hình có điều chỉnh của Berger và De Young (1997), nhóm tác giả Rossi và cộng sự (2009) phân tích ĐDH trên quy mô và lĩnh vực ngành có ảnh hưởng đến rủi ro, chi phí, lợi nhuận và vốn của ngân hàng Úc hay không? Với số liệu do NHTW Úc cung cấp từ 1997-2003, kết quả chỉ ra rằng mặc dù ĐDH ảnh hưởng tiêu cực đến chi phí ngân hàng, nhưng lại làm tăng lợi nhuận, hiệu quả và có tác động tích cực đến vốn của ngân hàng.

Về quan điểm đa dạng hóa không tạo ra lợi ích, có thể dẫn đến rủi ro cho hoạt động kinh doanh ngân hàng:

Một nghiên cứu thú vị của Garcia - Kuhnert và cộng sự (2015) khi nghiên cứu về việc ĐDH cổ đông trong ngân hàng. Phát hiện đáng kể của nhóm tác giả là việc 62% các cổ đông nắm giữ tỷ lệ lớn cổ phần là những nhà đầu tư ưa thích ĐDH danh mục đầu tư của họ. Chính vì điều này ảnh hưởng đến hành vi chấp nhận rủi ro của họ trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Kết quả là ngân hàng do các cổ đông này sở hữu luôn phải ở mức độ rủi ro cao hơn, hàm ý rằng ĐDH làm gia tăng rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng.

Cũng đồng tình với việc ĐDH làm giảm lợi nhuận và gia tăng rủi ro là nhóm tác giả Berger và cộng sự (2010). Nghiên cứu thực nghiệm các ngân hàng Nga và Trung Quốc giai đoạn 1996-2006 bằng cách xây dựng phương pháp mới đo lường ĐDH trong hoạt động cho kết quả ĐDH làm giảm lợi nhuận và gia tăng chi phí cho ngân hàng. Nghiên cứu cũng chỉ ra những ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài không lựa chọn ĐDH trong hoạt động của mình. Từ đó đưa ra các hàm ý chính sách cho các nhà quản lý Nga cũng như ở các thị trường mới nổi.

Nhóm tác giả Acharya và cộng sự (2006) đã kết luận trong nghiên cứu của mình về hai hoạt động chuyên môn hóa và ĐDH của ngân hàng. Các tác giả so sánh liệu xem các hoạt động này ảnh hưởng như thế nào đến thu nhập và rủi ro ngân hàng. Mẫu nghiên cứu bao gồm 105 ngân hàng ở Ý giai đoạn 1993 – 1999. Lĩnh


vực nghiên cứu bao gồm: huy động vốn, cho vay và quy mô tài sản. Kết quả cho thấy các ngân hàng Ý thực hiện ĐDH không mang lại HQKD cho ngân hàng, mặt khác, rủi ro gia tăng đối với các khoản vay. Mặt khác, không có sự đảm bảo việc ĐDH tài sản ngân hàng sẽ mang lại hiệu quả cao hoặc an toàn hơn cho các ngân hàng.

Bõninghausen và Kõhler (2015) khi nghiên cứu về ĐDH danh mục tín dụng quốc tế nhận thấy rằng mặc dù việc mở rộng sang các thị trường nước ngoài tạo ra nhiều tiềm năng cho các ngân hàng trong việc ĐDH danh mục cho vay nhưng lại phụ thuộc quá nhiều vào đặc điểm các TCTC và các quy định ngân hàng liên quan. Điều này dẫn đến kết quả việc ĐDH doanh mục cho vay của các ngân hàng Đức chỉ thực sự mang lại hiệu quả ngân hàng khi tập trung vào các nước phát triển hay khu vực tư nhân ở 10 quốc gia trong danh mục.

Bổ sung vào luận điểm về việc ĐDH thật sự không mang lại lợi ích cho ngân hàng, nghiên cứu của Hayden và cộng sự (2006) khảo sát mối liên hệ giữa khả năng sinh lợi (ROA) và sự ĐDH danh mục đầu tư của ngân hàng trên các ngành công nghiệp, khu vực kinh tế và các vùng địa lý (đo bằng chỉ số Herfindahl). Kết quả cho thấy rằng trên mẫu nghiên cứu là 983 ngân hàng ở Đức giai đoạn 1996 – 2002, ĐDH có xu hướng làm giảm lợi nhuận của các ngân hàng trong mối tương quan với mức độ rủi ro vừa phải.

Tương tự, ĐDH danh mục đầu tư của ngân hàng mang lại lợi nhuận nhưng đồng thời cũng làm gia tăng rủi ro cho ngân hàng (Gulmhussen và cộng sự, 2014). Nghiên cứu được thực hiện trên mẫu gồm 384 ngân hàng niêm yết từ 56 quốc gia, số liệu được lấy trong giai đoạn 2001-2007, tức là trước giai đoạn khủng hoảng, cho kết quả hàm ý rõ ràng rằng ĐDH hoạt động trên phạm vi quốc tế làm gia tăng đáng kể rủi ro cho ngân hàng.

Ngoài ra, khi nghiên cứu về lợi nhuận và rủi ro từ ĐDH thu nhập của NHTM Việt Nam, Võ Xuân Vinh và Trần Thị Phương Mai (2015) đã chỉ ra lợi ích của việc gia tăng thu nhập khi ngân hàng tiến hành ĐDH hoạt động. Tuy nhiên, khi đề cập đến yếu tố rủi ro thì ngân hàng càng ĐDH thu nhập thì lợi nhuận điều chỉnh rủi ro sẽ

Xem tất cả 221 trang.

Ngày đăng: 26/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí