thường đều phải mang trong mình những trăn trở, day dứt về cái nghèo, về sự cô đơn và về cả những niềm tin bị đánh mất trong cuộc sống. Và họ khát khao, khát khao có được một hạnh phúc dung dị của đời thường, khát khao có sự bình yên trong tâm hồn mà họ chẳng thể nào có nổi.
Trong văn xuôi nữ những năm gần đây, người ta bắt gặp những thân phận phụ nữ hẩm hiu, kém may mắn – những người phụ nữ khiếm khuyết về thể hình. Đó là những người mà “tạo hoá đã say rượu khi nặn ra” hoặc bỗng nhiên mắc phải một căn bệnh kỳ quái nào đó. Những nhân vật này đồng loạt xuất hiện trong nhiều truyện ngắn của Võ Thị Hảo. Đó là hình ảnh cô bé bị tật nguyền luôn mong đợi những lá thư cổ tích trong Máu của lá, là hình ảnh cô gái mù hình dung cuộc đời qua những âm thanh vọng lại từ chiếc tivi bên nhà hàng xóm trong Làn môi đồng trinh, hay hình ảnh người đàn bà hủi trong Phiên chợ người cùi buồn tênh, lạnh vắng,… Viết về những người phụ nữ kém may mắn này, dường như Võ Thị Hảo muốn nhấn mạnh những khát khao rất đời thường, rất giản dị của họ nhưng lại là những khát khao khó có thể trở thành hiện thực. Hình ảnh cô gái mù loà xoè tay đếm những hạt mưa rơi và hy vọng về một thiên thần sẽ đến trong Làn môi đồng trinh khiến người ta không khỏ thắc thỏm bởi ngay cả người con trai hàng xóm, với những tình cảm bột phát xen lẫn thương hại cũng chẳng biết mình sẽ “an ủi cô gái mù loà được bao lâu”. “Bao nhiêu kiếp đàn bà đã xoè tay hứng mưa dưới bầu trời này, nhưng đã có ai hứng được mười giọt mưa long lanh như ngọc rơi trọn lòng tay!”. [117, tr.83]. Hình ảnh cô vợ bị bệnh phong và bị chồng, gia đình nhà chồng hắt hủi, xa lánh trong Phiên chợ người cùi khiến người ta không khỏi chạnh lòng. Và hình ảnh cô bé tật nguyền hạnh phúc đến tột cùng khi nhận được lá thư vốn chẳng phải của người gửi mà cô mong đợi cũng như chẳng dành cho cô làm người ta khắc khoải,… Những người phụ nữ ấy cuối cùng vẫn phải bước đi giữa cuộc đời bằng cả những mong mỏi và hy vọng. Vượt lên trên tất cả, những người phụ nữ ấy vẫn không ngừng tin vào sự thần kỳ của cuộc đời. Họ bám víu lấy cuộc sống với cảm thức: “Mẹ chị không hạnh phúc, chị gái của chị cũng không hạnh phúc, người
hàng xóm của chị cũng không hạnh phúc… Gia đình chị không thể thêm người bất hạnh thứ ba”. [103].
Bên cạnh những người phụ nữ khiếm khuyết, kém may mắn về thể hình, người đọc lại tìm thấy hình ảnh những người phụ nữ thật đẹp, thật gợi tình với “bàn tay nhỏ nhắn và mềm mại hiếm thấy”, với những “đôi chân dài miên man”, những “bộ ngực tuyệt đẹp lấp ló”, hay “ánh mắt và khoé môi đa tình, hờn dỗi” trong nhiều tác phẩm của Đỗ Hoàng Diệu. Những người con gái thật đẹp trong Bóng đè, Vu quy, Dòng sông hủi, Hoa máu, Huyền thoại về lời hứa, Căn bệnh,… của Đỗ Hoàng Diệu luôn mang một dáng dấp thật nữ tính, thật dịu dàng nhưng lại ẩn chứa trong tâm hồn một sự mạnh mẽ hiếm thấy. Dù vậy, không ngoại lệ, nhân vật nữ của Đỗ Hoàng Diệu cũng không thoát khỏi một cuộc kiếm tìm hạnh phúc đời thường trong vô vọng và tuyệt vọng bởi những giả dối, bất trắc của cuộc đời, của lòng người. Người con gái trong Bóng đè liệu có thể hạnh phúc không khi trong tâm hồn cô là cả một “cái bàn thờ với bài vị tổ tông” khát khao nhục dục và khi chính cô cũng không lý giải nổi những cảm giác tội lỗi xen lẫn khát khao tận hưởng của chính mình? Người con gái trong Vu quy liệu có thể có được hạnh phúc bên “một cái xác ướp” sau những đớn đau của các cuộc tình như cô cảm nhận “Tình cảm ư? Cũng như nén nhang đang ngút khói trên bàn thờ kia, sẽ tàn trong canh giờ và thổi bụi vào không gian. Tôi đã yêu anh, đã yêu ông, đã yêu chàng, đã yêu Tim nhiều như vậy”. [99, tr.65]. Và người con gái trong Dòng sông hủi liệu có hạnh phúc khi phải đối mặt với sự phũ phàng của cuộc đời, của tình người? Mỗi nhân vật nữ trong tác phẩm của Đỗ Hoàng Diệu dù đẹp nhưng đều có cuộc sống tâm hồn thật bất ổn. Họ dường như cứ phải dành hết tuổi trẻ của mình để kiếm tìm hạnh phúc đích thực, kiếm tìm một chữ tình mà chính họ cũng không hiểu tại sao họ phải kiếm tìm bởi nhu cầu được hạnh phúc đâu phải là nhu cầu của riêng người phụ nữ.
Đi sâu vào khám phá thế giới nhân vật nữ trong sáng tác của các nhà văn nữ thời gian gần đây, chúng tôi nhận thấy một điều rõ ràng rằng trong xã hội hiện đại, dường như nỗi ám ảnh của phái yếu không phải là tiền tài, danh vọng; không phải
là bổn phận, trách nhiệm; và lại càng không phải là những giá trị đạo đức mà xã hội khoác lên vai họ. Nỗi ám ảnh đau đáu trong suốt cuộc đời họ - những người phụ nữ, là tình yêu. Những nhân vật nữ của Nguyễn Thị Thu Huệ cũng không ngoại lệ. Không khai thác hình ảnh nhân vật nữ thời hậu chiến hay những cô gái kém may mắn thời hiện đại như Võ Thị Hảo, và cũng không đề cập đến những ngoại hình đẹp của nhân vật nữ như Đỗ Hoàng Diệu, truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ viết về những ước mơ hạnh phúc đời thường của người phụ nữ ở khía cạnh khác. Là một nhà văn có cái nhìn tinh tế, truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ là những câu chuyện rất đời thường về sự bộn bề của cuộc sống trong thời buổi đồng tiền chế ngự đời sống và tình cảm của con người. Bước vào thế giới truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ, chúng ta dường như bước vào một lãnh địa rất riêng tư của phụ nữ. Ở đó, tác giả xây dựng những bức tranh đa sắc của cuộc sống xã hội muôn màu, nhưng hình ảnh người phụ nữ luôn là tâm điểm. Dường như Nguyễn Thị Thu Huệ cầm bút là để viết về những người phụ nữ. Trong sáng tác của Nguyễn Thị Thu Huệ, người ta hiếm thấy xuất hiện nhân vật chính là nam giới. Trong tuyển tập 37 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ xuất bản năm 1998, chúng tôi chỉ thấy có 3 truyện mà nhân vật chính là nam giới là Những đêm thắp sáng, Nước mắt đàn ông và Minu xinh đẹp mà thôi. Trong nhiều truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ, những nhân vật nữ, dù già hay trẻ, dù đang hạnh phúc hay lỡ dở, dù là thiếu nữ chưa chồng hay người phụ nữ từng trải,… thì đều có một điểm chung ở họ, đó là những tâm hồn khát yêu, khao khát được yêu và tất tả trên những nẻo đường yêu để si mê và dâng hiến. Đó là hình ảnh cô bé mười sáu tuổi chập chững bước vào tình yêu trong Hậu thiên đường. Cô bé yêu người đàn ông của mình bằng cả sự ngây thơ, mê đắm trong thiên đường yêu mà không nhận ra rằng người đàn ông của mình chỉ là một kẻ ích kỷ và thô thiển. Đó cũng là một cô gái mới lớn dám liều mình bỏ nhà ra đi, vượt mấy trăm cây số để đến với người đàn ông hơn mình mười hai tuổi vừa bỏ vợ trong Biển ấm. Đọc những tác phẩm của Nguyễn Thị Thu Huệ, người ta nhận ra một điều rằng trong vườn yêu muôn nẻo của Hậu thiên đường, Cõi mê, Nào
ta cùng lãng quên không phải chỉ những người phụ nữ mê muội hay dở dở ương ương mới đắm đuối vì yêu mà ngay cả những người phụ nữ luôn coi mình là người tỉnh táo cũng lạc lối.
Nguyễn Thị Thu Huệ thường viết về những nhân vật phụ nữ - những người đàn bà luôn sống với trăm mối tơ vò trong bi kịch tâm hồn không lối thoát hay những cô gái háo hức bước vào tình yêu, bước vào cuộc sống mà ở đó những khát vọng hướng thiện, hạnh phúc hay khổ đau, bất hạnh đôi khi chỉ có khoảng cách là một sợi tóc. Mỏng manh đến điệu đà, nhạy cảm đến mức khắt khe là cảm giác của người đọc về những nhân vật nữ của Nguyễn Thị Thu Huệ. Đọc tác phẩm của Nguyễn Thị Thu Huệ, người ta tìm thấy những nhân vật phụ nữ khát khao yêu, khát khao sống cho đúng nghĩa với tình yêu nhưng lại rơi vào những cảnh sống, những nỗi đau không lối thoát. Các truyện ngắn Tân cảng, Huyền thoại, Tình yêu ơi, Ở đâu, Dĩ vãng,... đều viết về những bi kịch của người phụ nữ, về thân phận của những người đàn bà với nỗi đau trong sâu thẳm tâm hồn bởi luôn khao khát một tình yêu tuyệt mỹ nhưng lại là thứ tình yêu thật khó kiếm tìm trong cuộc sống hiện đại.
Sự hấp dẫn của truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ nằm ở lối viết đằm thắm, nồng nàn hơi ấm nữ tính. Mỗi truyện như một lời tâm tình, chia sẻ hướng tới những tri âm. Sôi nổi, nồng nàn, nồng nàn ngay cả trong hoàn cảnh cay đắng và chua chát nhất chính là âm hưởng chi phối sáng tác của Nguyễn Thị Thu Huệ. Giọng điệu ấy khiến truyện ngắn của chị, dù đề cập đến nhiều đổ vỡ, mất mát nhưng vẫn là sợi dây neo đậu niềm tin vào hạnh phúc và tình yêu. Đọc truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ, người đọc hình dung được phần nào mặt trái của xã hội, và để cảm nhận, cảm thông với những góc khuất trong tâm hồn con người. Đó là sự thông cảm, chia sẻ với những người đàn bà luôn mang trong mình khao khát hướng đến sự toàn mỹ của cuộc đời, nhưng lại phải đối mặt với những bi kịch - thứ bi kịch tâm hồn của người đàn bà trong đời sống hiện đại.
Đến với những sáng tác của các nhà văn nữ những năm gần đây, chúng ta bắt gặp những người đàn bà mà kiếp sống của họ là kiếp nạn. Cuộc đời họ là cuộc đời của những nỗi đa đoan đầy nước mắt khổ đau. Những người phụ nữ đó, họ nổi nênh, cô đơn, tủi nhục, bi đát trong một thế giới đói nghèo, tăm tối với những cảnh đời của những người gánh nước thuê, người bán ốc luộc trong sáng tác của Võ Thị Hảo hay những cảnh đời khốn khó trên những cánh đồng “trống trơn”, “mùa hạn hung hãn” trong những sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư.
Có thể bạn quan tâm!
- Bối Cảnh Lịch Sử Xã Hội Và Tình Hình Văn Học Việt Nam Từ Sau Năm 1975
- Người Phụ Nữ Và Những Cuộc Chiến Vẫn Còn Nhức Nhối
- Người Phụ Nữ Và Những Khát Khao Hạnh Phúc Đời Thường
- Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn xuôi Việt Nam đương đại qua sáng tác của một số nhà văn nữ tiêu biểu - 13
- ?xét Lại” Thế Giới Đàn Ông Bằng Con Mắt Đàn Bà
- Không/thời Gian Nghệ Thuật – Bức Tranh Thế Giới Qua Con Mắt Phụ Nữ
Xem toàn bộ 173 trang tài liệu này.
Trước khi Cánh đồng bất tận ra đời, Nguyễn Ngọc Tư đã in các tập Ngọn đèn không tắt, Giao thừa, Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư. Tiếp cận những tác phẩm này, người ta thấy bao giờ Nguyễn Ngọc Tư cũng có chừng mực khi diễn tả về niềm hạnh phúc và cả nỗi buồn đau, bất hạnh của con người. Chị nhìn cuộc sống và những người xung quanh mình bằng một tấm lòng khoan dung, độ lượng… Dường như chị cho rằng chẳng có ai là hạnh phúc trọn vẹn và cũng chẳng có ai là đau khổ đến tận cùng và trong khá nhiều tác phẩm, và dường như chị cũng không đụng chạm nhiều đến sự tuyệt đối của cái tốt và cái xấu… Hãy vui với những hạnh phúc nho nhỏ mà mình may mắn có được và cũng đừng tuyệt vọng… Đến Cánh đồng bất tận, Nguyễn Ngoc Tư đã bất ngờ thay đổi trong giọng văn, trong cách nhìn, trong sự suy ngẫm về cuộc đời. Vẫn những lời văn đặc sệt chất Nam Bộ, nhưng cái nhìn về cuộc sống không còn bình yên, phẳng lặng như trước mà dữ dội, chua xót, cay đắng… Những người phụ nữ trong Cánh đồng bất tận là những người đàn bà cùng bầy con nheo nhóc “bu quanh nồi khoai luộc trong nhập nhoạng nắng chiều” giữa lúc người đàn ông của họ dốc kiệt túi tiền để mua cơn hoan lạc ngắn ngủi nơi những người đàn bà thị thành cùng đường xuống quê “làm nghề”; là những người can tội “làm đĩ” đã bị đồng loại trừng trị dã man như thời trung cổ. Nguyễn Ngọc Tư đã tâm sự khi viết Cánh đồng bất tận để nói thêm về sự thực và tưởng tượng trong tác phẩm này: “Tôi cũng bàng hoàng, khi viết. Tôi thường tự hào về trí tưởng tượng của mình nhưng thấy chóng mặt, ngộp thở với chi tiết có thật mà tôi nghe được, giữa đời. Tôi thú nhận là đã sao chép cuộc sống, bởi tưởng tượng chỉ là trò
bỏ đi. Nhưng xin các bạn đừng ngạc nhiên, tôi chưa từng tưởng tượng chuyện con người lại tra tấn bằng cách bắt lươn sống chui vào cửa mình người phụ nữ, đá thốc vào bụng người đang mang thai... nhưng những ai đi qua chiến tranh không hề thấy lạ. Tôi cảm giác khi cái ác lên ngôi trong phần con, phần người chết ngắc...” (Tuổi Trẻ 21/11/2005).
Và những người phụ nữ đó cuối cùng đã không đủ kiên nhẫn sống mãi cuộc sống nghèo túng, nhàm chán, quẩn quanh; không chấp nhận sống mãi với những người chồng mà thường “dùng tay chân để tỏ rõ uy quyền” song “cả đời lại không biết nói một câu yêu thương, một lời tử tế”; và ngược lại, họ cũng không chấp nhận một cuộc sống thiếu hơi ấm đàn ông.
Đi sâu vào khám phá những nhân vật nữ trong văn xuôi đương đại, chúng tôi cảm nhận sâu sắc hơn về những nỗi khổ trong tâm hồn những người phụ nữ. Là phụ nữ, khi vừa sinh ra đã khổ. Nỗi khổ đó gắn với hình ảnh người mẹ không thể vui trọn niềm vui khi con gái chào đời nếu họ chưa sinh được cho người chồng và gia đình nhà chồng một đứa con trai nối dõi. Lớn lên, những bé gái lại phải đối mặt với muôn vàn những rủi ro, những bất trắc mà thế giới bất toàn này mang lại. Và khi đã trở thành những người phụ nữ - những người đàn bà thì cuộc đời họ lại luôn phải đối mặt với những sóng gió, bão giông trong cuộc đời; và để rồi, giống như bà và mẹ, họ lại khát khao hạnh phúc, khát khao một cuộc sống đời thường thật bình yên. Và liệu rằng sự bình yên ấy có thể hiện hữu trong vòng quay chóng mặt của cuộc sống, của lòng người hôm nay? Viết về khát khao hạnh phúc đời thường của những nhân vật nữ - những người đồng giới với mình, các cây bút nữ đương đại đã cất lên tiếng lòng của những người phụ nữ, đưa âm hưởng của những “lời trái tim” ấy đến với những trái tim để không ngừng hy vọng về “một ngày mai hạnh phúc đong đầy” cho những người phụ nữ.
3.3.1.3. Tính dục như một phương thức thể hiện bản ngã
Theo M. Foucault, “Tính dục không phải là một thực tại để kiểm soát bởi quyền lực hay có thể được khám phá bằng một khảo sát kỹ càng. Tính dục là một
tạo tác có tính xã hội mà ở đó chuyển dẫn những mối quan hệ quyền lực khác nhau. Tính dục là một tạo tác mang tính lịch sử”. Như vậy, tính dục là một hiện tượng văn hoá, nó không phải là cái được phát hiện ra mà là cái được tạo ra bởi những diễn ngôn nhằm hợp thức hoá những quan hệ quyền lực để thực hiện một dự đồ nào đó. Mặt khác, cũng theo quan niệm của Foucault, tính dục có quan hệ mật thiết với technologies of the self (công nghệ cái tôi). Từ đó, cái tôi được tạo lập và có tính lịch sử. Và chính vì thế mà mỗi thời đại có những quan niệm khác nhau về con người. Đây cũng chính là quan điểm tiến bộ về mặt tiếp cận xã hội, con người. Điều này lý giải vì sao văn học đương đại với tư cách là một nền văn học luôn song hành cùng hiện thực đời sống xã hội hiện đại lại đề cập nhiều đến yếu tố tính dục sau một thời gian con người tự nhiên, con người bản năng không được đề cập đến. Tính dục và thể xác con người không phải chỉ là hiện thực được miêu tả, mà còn chứa đựng và chuyển tải quan niệm nghệ thuật, bộc lộ nhân sinh quan, thế giới quan của nhà văn về đời sống; đồng thời, vừa là phương thức nghệ thuật chủ đạo, xuyên suốt và thống nhất được sử dụng để tái hiện hiện thực đời sống ấy.
Các nhà phê bình nữ quyền phương Tây đầu thế kỷ XX với các khuynh hướng nữ quyền hiện sinh, nữ quyền hậu cấu trúc, nữ quyền hậu hiện đại… đã nêu cao chủ trương người phụ nữ viết về chính thân thể của mình. Họ gọi đó là một “lối viết thân thể” (body writing). Họ cho rằng toàn bộ nền tư tưởng phương Tây vốn được xác lập dựa trên “sự áp bức mang tính hệ thống của nam giới đối với đời sống của nữ giới”. Trong tác phẩm Tiếng cười nàng Medusa, Hèlène Cixous đã thúc giục người phụ nữ cầm bút: “Hãy kiểm soát thân thể mình cùng lúc với việc kiểm soát hơi thở và lời nói. Hãy viết về chính bản thân bạn. Thể xác cũng cần phải được lắng nghe” [131]. Khuynh hướng này đã tạo nên ý niệm của các nhà phê bình nữ quyền về một lối viết thân thể, về vấn đề tính dục trong các tác phẩm văn học nữ đương đại. Trào lưu văn học linglei ở Trung Quốc bùng nổ từ thập kỷ 70 của thế kỷ XX cũng chịu tác động và gắn với lối viết này.
Như chúng tôi đã đề cập đến ở phần đầu luận án, cùng với việc nở rộ dòng văn học nữ quyền trên văn đàn thế giới, ở Việt Nam cũng xuất hiện gần như đồng loạt rất nhiều cây bút nữ mà khi đọc tác phẩm của họ, chúng tôi thấy rõ vấn đề phái tính và những âm hưởng nữ quyền đang được cất lên ngày càng mạnh mẽ và riết róng. Tình yêu và hạnh phúc gia đình là những đề tài quen thuộc và là thế mạnh của nhà văn nữ. Sáng tác của họ cho thấy một ý thức tự giác, một nhu cầu khá nhức nhối trong việc khẳng định phái tính. Tính dục cũng là một biểu hiện quan trọng của phái tính và có thể xem đây là sự lên tiếng đầy bản lĩnh của nhà văn nữ.
Trước đây, đề tài về tính dục vẫn được xem là một đề tài kị húy trong văn học Việt Nam bởi những ai dám đề cập đến nó đều phải chịu gò bó trong những ngôn từ ước lệ do thứ tư duy kiểu “khuôn vàng thước ngọc” vốn dĩ đã ăn sâu trong tâm thức mọi người. Thời phong kiến, tình dục chỉ xuất phát từ nhu cầu sinh sản để duy trì nòi giống. Điều này có nguyên nhân từ quan niệm về con người dòng họ và xã tắc. Sứ mệnh quan trọng của mỗi cá nhân đã trưởng thành là duy trì nòi giống. Tính dục không cần biết đến tình yêu, càng không thể coi là khoái cảm cá nhân. Tinh thần khắc khổ và chủ nghĩa tập thể trong 30 năm chiến tranh cũng loại yếu tố tính dục, bản năng ra khỏi quan niệm con người chuẩn mực. Một thời, những vần thơ tình giàu sắc thái nhục cảm của Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử bị phê phán nặng nề, bị xem là đồi trụy. Nay nhìn lại, chúng ta đều nhận thấy cách nghĩ ấy thật hẹp hòi và không hiểu con người.
Từ sau năm 1975, và đặc biệt là từ những năm 80 của thế kỷ XX trở lại đây, vấn đề giới tính, tình yêu, tình dục và các quan hệ xã hội đan chéo là những đề tài phổ biến của các nhà văn thế hệ mới. Với “ý thức tự ngã”, không thích đề cập đến những vấn đề khái quát, trọng đại, các nhà văn, mà đặc biệt là các nhà văn nữ đương đại, quan tâm đến những vấn đề liên quan đến việc tự nhận thức, tự trải nghiệm – những điều họ thấy được và nghe được. Tác phẩm của họ đề cập đến những vấn đề tình yêu, dục tính và các quan hệ tình cảm hiện đại dưới góc nhìn hiện đại – điều mà người ta sẽ không thể chấp nhận khi tiếp cận với tác phẩm bằng