Tác động của cấu trúc tài chính tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại - 3


đã có 87.928 và 1996-2002 có 59.623 quan sát tương ứng. Dữ liệu thô được sử dụng trong các hàm hồi quy cũng như hai kỹ thuật thay thế để xử lý tiêu cực và gần bằng 0. Hutchison và Cox đã chứng minh rằng đối với các ngân hàng ở Mỹ, có mối quan hệ tích cực giữa đòn bẩy tài chính và ROE cho cả giai đoạn 1983-1989 và 1996-2002. Tuy nhiên, kết quả rất nhạy cảm với các vấn đề đo lường dữ liệu. Hơn nữa, tỷ lệ đòn bẩy tài chính và ROE dường như có sự khác biệt giữa hai giai đoạn nghiên cứu.Và khi quan sát ROA một mô hình tương tự như với ROE thì họ nhận thấy rằng ROA có liên quan nghịch với đòn bẩy tài chính. Tuy kết luận cuối cùng là mối quan hệ giữa vốn chủ sở hữu của ngân hàng và thu nhập là tiêu cực, nhưng dường như các kết quả nghiên cứu cho thấy rằng ở các giai đoạn nghiên cứu khác nhau thì các kết quả cũng khác nhau.

Nghiên cứu của Pratomo và Ismail (2006) đưa ra giả thuyết về chi phí của của 15 ngân hàng Hồi giáo ở Malaysia trong giai đoạn 1997-2004, theo đó ngân hàng có đòn bẩy cao có xu hướng giảm chi phí đại lý. Pratomo và Ismail đặt hiệu quả lợi nhuận của ngân hàng là chỉ số giảm chi phí đại lý và tỷ lệ vốn chủ sở hữu của một ngân hàng như một chỉ số về đòn bẩy. Pratomo và Ismail đã kiểm tra sự liên kết của hiệu quả lợi nhuận được đo lường bằng lợi tức trên vốn chủ sở hữu và đòn bẩy tài chính. Cụ thể, đòn bẩy tài chính có tác động tương hỗ (+) đến hiệu quả tài chính của ngân hàng. Kết quả nghiên cứu của các nhân tố khác đến hiệu quả tài chính của ngân hàng: độ lệch chuẩn của ROE (SDROE), chỉ số tiền gửi thị trường (HERF) có tương quan thuận, cho vay (LOAN) có tác động ngược chiều nhưng không có ý nghĩa thống kê, trong khi đó nhân tố đầu tư chứng khoán (SEC) có tác động ngược chiều với hiệu quả tài chính, ở mức ý nghĩa 1% quy mô ngân hàng (SIZE) có tác động ngược chiều với hiệu suất của ngân hàng. Các kết quả nghiên cứu này cho thấy tuy đòn bẩy tài chính có tác động tương hỗ đến hiệu quả tài chính nhưng dường như đối với các ngân hàng quy mô lớn thì tác động này lại có xu hướng không được rõ rệt.

Hoffmann (2011) sau khi phân tích lợi nhuận của 11.777 ngân hàng Mỹ, nghiên cứu này tìm cách kiểm tra các yếu tố quyết định lợi nhuận của các ngân hàng Mỹ trong giai đoạn 1995-2007, với tổng số 108.439 quan sát ngân hàng trong các năm. Phân tích thực nghiệm kết hợp các biến cụ thể (nội sinh) và kinh tế vĩ mô (ngoại sinh) thông qua bộ ước lượng hệ thống GMM. Các phát hiện thực nghiệm ghi lại mối liên hệ tiêu cực giữa tỷ lệ vốn và khả năng sinh lời, hỗ trợ quan điểm cho rằng các ngân hàng đang hoạt động quá thận trọng và bỏ qua các cơ hội giao dịch có khả năng sinh lợi. Trong nghiên cứu của mình, ông nhấn mạnh rằng khung quy định phức tạp của ngành ngân hàng Hoa Kỳ và các yêu cầu về vốn tối thiểu của nó đã ảnh hưởng đến các quyết định


tài chính về thu nhập của các ngân hàng. Ông lập luận rằng mối quan hệ giữa cấu trúc vốn và lợi nhuận không đơn điệu. Nhưng ông tuyên bố rằng nếu mối quan hệ không đơn điệu bị bỏ qua và tập trung vào hiệu quả duy nhất thì mối quan hệ giữa chúng có thể là tiêu cực. Bởi vì sự gia tăng đột ngột của vốn sẽ không được sử dụng ngay, do đó nó sẽ dẫn đến giảm lợi nhuận. Hơn nữa, nghiên cứu này đã phân tích giai đoạn trước cuộc khủng hoảng ngân hàng năm 2009, khi đó hầu hết các ngân hàng Mỹ đều được đánh giá cao vào thời điểm đó. Hầu hết trong số đó đã bị phá sản trong hệ thống đánh giá xếp loại S & P. Điều này có nghĩa là các ngân hàng lớn đã hành động không liên quan nhiều đến sự hiểu biết về M&M. Nhưng chỉ sau cuộc khủng hoảng ngân hàng năm 2009 ở Hoa Kỳ, các hệ thống quy định đã tăng mức dự trữ vốn tối thiểu của các ngân hàng. Ngoài ra, nghiên cứu chỉ ra mối quan hệ không đơn điệu giữa tỷ lệ vốn và khả năng sinh lời, hỗ trợ các giả thuyết về hiệu quả và giá trị nhượng quyền thương mại. Biến phụ thuộc là hiệu quả đo bởi lợi tức trên vốn chủ sở hữu (EFCROE), các biến độc lập được xác định bởi tỷ lệ vốn (CAP), vốn cổ phần trên tổng tài sản cho ngân hàng i trong kỳ t; kích thước ngân hàng, tập trung thị trường, khả năng cho vay, nhu cầu tiền gửi, chi phí lãi vay, đầu tư chứng khoán, rủi ro của ngân hàng, cộng với một loạt các biến kiểm soát như tỷ lệ chiết khấu của ngân hàng Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ, chỉ số ngân hàng NASDAQ và danh tiếng của ngân hàng, kích thước ngân hàng được tính bằng logarit tự nhiên của tổng tài sản (SIZE). Chỉ số Herfindahl về mức độ thị trường (HERF) và tỷ lệ tiền gửi thị trường của ngân hàng mỗi năm và cho mỗi tiểu bang (SHAREDEPOSIT). Các kết luận chính của nghiên cứu này là có một mối quan hệ thực nghiệm không đơn điệu giữa khả năng sinh lợi của ngân hàng và tỷ lệ vốn chủ sở hữu của nó. Cụ thể, đối với ngành ngân hàng Mỹ, rủi ro hiệu quả và giả thuyết giá trị nhượng quyền thương mại là những yếu tố quan trọng nhất giải thích mối quan hệ giữa lợi nhuận và vốn. Giả thuyết về rủi ro hiệu quả cho rằng các ngân hàng hiệu quả nhất (những ngân hàng có lãi suất cao hơn) sẽ chọn mức vốn thấp; trong khi giả thuyết về giá trị nhượng quyền thương mại, các ngân hàng hiệu quả nhất sẽ tìm kiếm các tỷ lệ vốn cao. Theo kinh nghiệm, giả thuyết rủi ro hiệu quả chiếm ưu thế bất cứ khi nào tỷ lệ vốn thấp hơn 41%. Sau đó, giả thuyết giá trị nhượng quyền thương mại có hiệu lực. Nếu bỏ qua mối quan hệ không đơn điệu và chú ý đến quan hệ nhân quả đơn lẻ thì mối quan hệ tiêu cực mạnh mẽ giữa vốn và lợi nhuận trở nên rõ ràng. Nghĩa là: một sự gia tăng bất ngờ về vốn có xu hướng dẫn đến giảm lợi nhuận của ngân hàng. Trong thực tế, Berger (1995) chỉ ra rằng mối quan hệ tiêu cực này có một sự hấp dẫn trực quan và phù hợp với mô hình một mình độc lập với thông tin bất đối xứng giữa ngân hàng và các nhà đầu tư cá nhân của nó. Tỷ lệ vốn cao hơn có xu hướng giảm rủi ro trên vốn chủ sở hữu và do đó làm giảm lợi tức kỳ vọng trên vốn chủ sở hữu mà nhà đầu tư tìm


kiếm. Nói cách khác, một tỷ lệ vốn cao biểu thị rằng một ngân hàng đang hoạt động quá thận trọng và bỏ qua các cơ hội giao dịch có khả năng sinh lợi. Thứ hai, có sự không cân đối về quy mô trong ngành ngân hàng Mỹ. Chỉ các ngân hàng nhỏ mới có thể tận dụng được kích thước của chúng. Thực tế là khả năng sinh lời của các ngân hàng này chủ yếu là trung gian tài chính và là kết quả của việc áp dụng và sử dụng hiệu quả công nghệ mới thay vì quy mô danh mục đầu tư của họ. Thứ ba, bên cạnh các yếu tố nội sinh giải thích khả năng sinh lời, kết quả cho thấy rằng các yếu tố ngoại sinh xác định hiệu quả trong lợi nhuận của các ngân hàng. Hơn nữa, các vấn đề kinh tế cổ điển của tính không đồng nhất, không thể kiểm soát và tính đồng nhất, thường là những thiếu sót trong loại phân tích chéo và phân đoạn thời gian này, đã được kiểm soát. Phần mở rộng của nghiên cứu này nằm trong một so sánh xuyên quốc gia và trong phân tích yếu tố quyết định đòn bẩy trong ngành ngân hàng.

Nghiên cứu của Saeed (2013) trong đó đánh giá tác động của cấu trúc vốn đến hiệu suất của các ngân hàng tại Pakistan trong giai đoạn (2007-2011) đã phát hiện một mối quan hệ tương hỗ giữa các yếu tố quyết định cấu trúc vốn và hiệu quả hoạt động của ngành ngân hàng. Mẫu nghiên cứu bao gồm 25 ngân hàng, được liệt kê tại (KSE) hoặc tại (SBP) ngân hàng nhà nước Pakistan trong giai đoạn 2007- 2011. Các biến độc lập bao gồm nợ dài hạn, nợ ngắn hạn, tổng nợ và các biến kiểm soát bao gồm quy mô doanh nghiệp, tăng trưởng tài sản và biến phụ thuộc là ROE, ROA và thu nhập trên mỗi cổ phiếu (EPS). Kết quả nghiên cứu xác nhận sự phụ thuộc tích cực mạnh mẽ của nợ ngắn hạn trên vốn (STDTC), tổng số nợ trên vốn và quy mô DN (SIZE) đối với tất cả các chỉ số sinh lời (ROA, ROE và EPS). Nhưng nợ dài hạn trên vốn (LTDTC) lại có mối quan hệ nghịch với ROA, ROE và EPS. Tăng trưởng tài sản (AG) có tác động tiêu cực không đáng kể đến ROA và ROE, trong khi tác động tiêu cực đáng kể đến EPS.

1.1.2. Quan điểm về ảnh hưởng tiêu cực của cấu trúc tài chính đến hiệu quả hoạt

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 176 trang tài liệu này.

động của ngân hàng thương mại.

Các nghiên cứu theo hướng tiếp cận này chủ yếu dựa trên cơ sở lý thuyết trật tự phân hạng và kết hợp với các giới hạn của lý thuyết người đại diện cho rằng khi đòn bẩy tài chính cao hơn sẽ làm dòng tiền tự do bị giới hạn mặt khác sẽ làm các nhà quản lý gia tăng việc e ngại rủi ro, cuối cùng các nhà quản trị sẽ quyết định từ bỏ các dự án rủi ro cao tuy khả năng sinh lời cao, vì thế đòn bẩy tài chính cao nhưng hiệu quả hoạt động không cao do các dự án có dòng tiền thuần dương lớn đã bị từ bỏ. Mặt khác, khi đòn bẩy tài chính cao các chủ nợ được xem như là có rủi ro cao hơn các cổ đông, khi đó họ yêu cầu các nhà quản trị phải cắt giảm chi phí cũng như từ bỏ những dự án có

Tác động của cấu trúc tài chính tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại - 3


rủi ro cao và lúc này đòn bẩy tài chính cao dẫn đến việc hiệu quả hoạt động suy giảm trong dài hạn.

Trong số các nghiên cứu mà tác giả có thể khảo sát về tác động của cấu trúc tài chính đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại thì phần lớn các nghiên cứu đề cập đến mối quan hệ ngược chiều này.

Kết quả nghiên cứu của Berger (1995) nghiên cứu cho các ngân hàng Mỹ từ năm 1983-1989 kết luận rằng có sự tác động tích cực và có ý nghĩa thống kê giữa tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) và tỷ lệ tài sản vốn (CAR, tỷ lệ nghịch của đòn bẩy). Mặc dù tác động tích cực của ROE là kết luận trái chiều, tác động của vốn chủ sở hữu đến thu nhập của cổ đông được giải thích bằng việc giảm chi phí tài chính đối với một khoản nợ không có bảo hiểm khi đòn bẩy tài chính giảm.

Demirguc và Huizinga (2000), nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng, tác giả dùng số liệu 80 quốc gia trong 8 năm (1990- 1997), nghiên cứu sử dụng 2 nhóm chỉ số: các chỉ số vi mô như giá trị sổ sách của vốn chủ sở hữu (tài sản trừ đi nợ) trên tổng tài sản; tổng dư nợ trên tổng tài sản; tài sản sinh lãi không phải trả lãi/tiền mặt; tiền gửi thu nhập không lãi tại các ngân hàng khác; tài sản thu nhập ngoài lãi khác trên tổng tài sản… Các chỉ số vĩ mô: GNP/cap; GNP thực trên đầu người; tốc độ tăng trưởng hàng năm của GDP thực; lạm phát hàng năm từ giảm phát GDP; Cơ cấu tài chính: tổng TS của các ngân hàng chia cho GDP; tổng tài sản của NHTW chia cho GDP; tín dụng cho khu vực tư nhân bằng tiền gửi các ngân hàng chia cho GDP; vốn hóa TTCK chia cho GDP; tổng giá trị của các cổ phiếu được giao dịch chia cho GDP. Nghiên cứu cho thấy rằng trong các hệ thống tài chính kém phát triển thường các ngân hàng có lợi nhuận cao hơn. Khi hệ thống tài chính phát triển cấu trúc tài chính được kiểm soát tức là sự phát triển tương đối của các ngân hàng so với thị trường, kết quả hồi quy cho thấy rằng ngân hàng càng phát triển càng làm giảm lợi nhuận của ngân hàng.Thị trường ngân hàng kém phát triển có xu hướng thịnh vượng với nguồn lực ít ỏi với sự thiếu hiệu quả và hành vi định giá ít cạnh tranh hơn, cũng như được lợi nhuận tương đối cao hơn. Do đó phát triển ngân hàng càng lớn hơn càng mang lại sự cạnh tranh gay gắt hơn và lợi nhuận thấp hơn. Nghiên cứu cũng thấy rằng trong các hệ thống tài chính kém phát triển TTCK cải thiện lợi nhuận của ngân hàng, điều này phản ánh sự bổ sung giữa ngân hàng và sự phát triển của TTCK. Cụ thể, phát triển TTCK cải thiện khả năng tài trợ vốn cổ phần cho các DN có thể làm tăng khả năng vay vốn của họ. Hơn nữa, thông tin tốt hơn và dễ dàng hơn có sẵn trên TTCK cũng cho phép các ngân hàng đánh giá tốt hơn rủi ro tín dụng. Điều này có thể dẫn đến sự gia tăng lợi nhuận ngân hàng. Tuy nhiên, ở các mức độ phát triển cao hơn


của TTCK, nghiên cứu không còn quan sát thấy những đặc trưng này này. Nhìn chung, nghiên cứu cho thấy đối với các quốc gia có hệ thống tài chính kém phát triển: việc phát triển tài chính lớn hơn sẽ nâng cao hiệu quả của ngành ngân hàng, có khả năng dẫn đến tăng tăng trưởng, cả ở cấp độ vi mô và ở cấp độ vĩ mô. Tuy nhiên, nghiên cứu thấy rằng cấu trúc tài chính mỗi ngân hàng không có ảnh hưởng đáng kể, hay có thể nói độc lập đối với lợi nhuận ngân hàng. Tóm lại, thông qua nhóm chỉ số vi mô nghiên cứu cho thấy hiệu quả kinh doanh của ngân hàng được đo lường bởi lợi nhuận trước thuế trên tài sản (ROA) bị tác động bởi nhiều yếu tố như: đặc điểm kinh doanh của ngân hàng, điều kiện kinh tế vĩ mô, quy mô tài sản của ngân hàng, đặc biệt quy mô vốn chủ sở hữu càng lớn sẽ cho thấy sức mạnh của ngân hàng, đồng thời đa dạng hóa được hoạt động của các ngân hàng và có điều kiện để làm tăng lợi nhuận cho các ngân hàng. Kết quả nghiên cứu này tuy cho thấy quy mô vốn chủ sở hữu của ngân hàng càng lớn thì hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng càng cao nhưng quan sát này chỉ thấy được ở những quốc gia có hệ thống tài chính kém phát triển.

Hortlund (2005) trong nghiên cứu của mình cho rằng kết quả nghiên cứu của Berger (1995) và Demirguc và Huizinga (2000) là khó giải thích vì theo tác giả ROE sẽ tăng tuyến tính với tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu (DER), tác giả cho rằng có khả năng khác là tương quan nghịch giữa đòn bẩy và lợi nhuận có thể phản ánh hoàn cảnh đặc biệt của những năm 1980 và đầu những năm 1990. Những năm 1980 là một thập kỷ tự do hóa tài chính, và những năm 1990 là thời kỳ hỗn loạn tài chính. Tác giả cho rằng trong một thập kỷ sự khác biệt trong đòn bẩy ngân hàng (ít nhất là ở châu Âu và ở miền Bắc Mỹ) là rất nhỏ. Do đó, tác giả trình bày dữ liệu mới về đòn bẩy và lợi nhuận của các ngân hàng thương mại Thụy Điển từ những năm 1870- 2001 và khám phá các dấu hiệu của mối quan hệ trong dài hạn. Dữ liệu được lấy từ tóm tắt Báo cáo Ngân hàng (Sammandrag af bankernas uppgifter). Trong nghiên cứu của mình tác giả gặp hai vấn đề gây khó khăn đó là: báo cáo tóm tắt không hiển thị dự trữ bắt buộc cho các ngân hàng, đặc biệt trong giai đoạn 1948, 1919,1968. Thứ hai, thuế suất doanh nghiệp rất đa dạng, từ gần như bằng 0 trong thế kỷ 19, đến hơn 50% vào những năm 1970…kết quả nghiên cứu cuối cùng cho thấy tồn tại mối quan hệ tích cực giữa tỷ lệ vốn chủ sở hữu và ROE (hay là tỷ lệ đòn bầy và ROE có mối tương quan nghịch) trong giai đoạn 1870-1980 (với ý nghĩa này, nghiên cứu hỗ trợ các kết quả trước đó của Berger, 1995 và Demirgüç & Huizinga, 2000), nhưng trong những năm 1980 – 1990 thì mối quan hệ này không thật mạnh mẽ và tác giả cho rằng về lâu dài, mối quan hệ tích cực giữa đòn bẩy và lợi nhuận trong ngân hàng cần được xác nhận lại, nghĩa là


trong nghiên cứu của mình Hortlund chỉ thấy được sự tác động nghịch chiều tại giai đoạn đầu của nghiên cứu, còn giai đoạn thứ hai thì mối quan hệ này không rõ ràng.

P. Bach (2006) nghiên cứu mối quan hệ giữa cấu trúc tài chính và khả năng sinh lợi của ngân hàng Croatia các dữ liệu về hoạt động kinh doanh của 30 ngân hàng có số liệu đầy đủ từ năm 1999 - 2003 đã được tập hợp. Mục tiêu của nghiên cứu này là để thiết lập các yếu tố quyết định lợi nhuận ngân hàng Croatia, với sự nhấn mạnh đặc biệt vào các yếu tố môi trường (tổng sản phẩm trong nước, lạm phát, tỷ giá hối đoái) và các yếu tố đó được cụ thể cho từng ngân hàng (kích thước, chi phí và doanh thu). Các biến hiệu quả ngân hàng được đo bởi lợi nhuận trên tài sản bình quân (ROAA), lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu bình quân (ROAE). Theo tác giả sự tương quan giữa ROAA và ROAE là đáng kể, cả hai chỉ số này được kết nối thông qua các hệ số nhân vốn chủ sở hữu bình quân EM (tài sản ròng chia cho vốn chủ sở hữu bình quân). Chỉ số này đo đòn bẩy tài chính, và trong cùng một thời điểm nó là thước đo của lợi nhuận và rủi ro. Kể từ đó ROAE có thể được tính như một sản phẩm của ROAA và EM hay có thể kết luận rằng ROAE có thể tăng bằng cách tăng lợi nhuận/tài sản hoặc bằng cách tăng đòn bẩy tài chính. Điều quan trọng là phải nhấn mạnh rằng ROAE là rất nhạy cảm với các ROAA, có nghĩa là sự thay đổi nhỏ trong ROAA dẫn đến một sự thay đổi lớn trong ROAE. Các thông số của hai phương trình hồi quy được ước tính, với các biến phụ thuộc khác nhau ROAA, ROAE và các biến độc lập (tỷ lệ vốn/tài sản, tín dụng /tài sản, tài sản không sinh lợi/tổng tài sản, tổng sản phẩm trong nước bình quân đầu người, chi phí vận hành/tỷ lệ tài sản, thị phần, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước, tỷ giá bình quân, lạm phát). Kết quả thực nghiệm của mô hình hồi quy cho thấy trong các kỳ quan sát năm 1999 - 2003 lợi nhuận các ngân hàng Croatia phụ thuộc chủ yếu vào đặc điểm cụ thể cho từng ngân hàng. ROAA có liên quan tích cực đến vốn/tài sản và tài sản không sinh lợi/tổng tài sản. ROAE có liên quan tích cực đến tài sản không sinh lợi/tổng tài sản, chi phí vận hành/tỷ lệ tài sản. Các biến kinh tế vĩ mô không có liên quan thống kê với lợi nhuận các ngân hàng, nhưng cần phải nhấn mạnh rằng nghiên cứu đã được xử lý với chuỗi thời gian khá ngắn. Nghiên cứu có thể kết luận rằng trong thời gian ngắn và điều kiện kinh tế vĩ mô ổn định, các ngân hàng có quy mô vốn lớn hay đòn bẩy thấp hơn hoạt động có hiệu quả hơn.

Tiếp tục nghiên cứu năm 1995, Berger et al (2008) đã tiến hành phân tích cấu trúc vốn và lợi nhuận của 666 ngân hàng thương mại niêm yết tại Mỹ trong giai đoạn 1992-2006. Nghiên cứu đã quan sát thấy rằng mặc dù khối lượng bất thường của lợi nhuận tích lũy trong thời gian này, các ngân hàng đang tìm kiếm để tăng hơn và nhiều hơn nữa tỷ lệ phần trăm của vốn tự có bằng cách phát hành cổ phiếu mới. Điều này có


nghĩa là lợi nhuận của các ngân hàng cao hơn sẽ được đáp ứng được khả năng của mình để tăng vốn tự có do tích lũy. Do đó có một mối quan hệ ngược chiều giữa mức lợi nhuận ngân hàng và các khoản nợ của họ.

Trong một nghiên cứu thực nghiệm khác, Gropp và Heider (2009) phân tích trên 200 ngân hàng ở Mỹ và EU giai đoạn 1991-2004 và lập luận rằng cấu trúc vốn của các ngân hàng khác với các công ty tài chính khác, vì tiền gửi thường không sẵn có cho các công ty, đối với các DN, khoản tiền gửi có thể được xem như là khoản nợ ngắn hạn. Các nhà nghiên cứu quan sát thấy hầu hết các ngân hàng đều đang tài trợ tài sản bằng tiền gửi. Nói cách khác, vì khoản tiền gửi là một phần của đòn bẩy, có nghĩa là hầu hết các ngân hàng của EU đều được đánh giá cao. Sau khi phân tích mối tương quan, các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng tỷ suất lợi nhuận và tỷ số đòn bẩy tương quan âm. Tuy nhiên, khi hầu hết các ngân hàng được đánh giá cao, họ bắt đầu tìm kiếm lý do tại sao các ngân hàng rất cần đòn bẩy nếu đòn bẩy làm giảm lợi nhuận. Sau đó, họ kết luận với câu trả lời rằng việc huy động vốn bằng cách phát hành vốn cổ phần có chi phí cao hơn các khoản nợ, và tâm lý "quá lớn để thất bại" bên cạnh các vấn đề đại diện giữa các nhà quản lý và các cổ đông đã đẩy các ngân hàng có tỷ lệ đòn bẩy cao hơn.

Osborne, Fuertes và Milne (2011) khi mở rộng kết quả nghiên cứu của Berger (1995) và năm (2008) đã nghiên cứu về các ngân hàng Mỹ, mẫu nghiên cứu bao gồm

15.000 ngân hàng vào đầu giai đoạn mẫu vào năm 1977, giảm xuống dưới 11.000 vào năm 1995 và khoảng 7000 vào năm 2010. Trong nghiên cứu này, các tác giả đã xem xét lại hiệu quả của vốn đối với khả năng sinh lợi của các ngân hàng Mỹ trong giai đoạn 1977-2010 để đánh giá xem mối quan hệ có khác nhau giữa các ngân hàng hay không, và liệu mối quan hệ có thay đổi theo thời gian hay không. Nghiên cứu tiến hành phân tích trong hai phần: đầu tiên, nghiên cứu thêm dữ liệu từ 1993-2010 để thực hiện phân tích có hệ thống hơn về mối quan hệ trong một khoảng thời gian dài hơn đã được thực hiện trước đây. Phù hợp với nghiên cứu đó, các tác giả tìm thấy một mối quan hệ tích cực trong những năm 1980 trong cuộc khủng hoảng tiết kiệm và cho vay. Trong phần hai của phân tích, các tác giả đã trình bày kết quả từ một phiên bản cải tiến của mô hình, trong đó không chỉ bao gồm ảnh hưởng của tỷ lệ vốn mục tiêu dài hạn mà còn cả thặng dư hoặc thâm hụt tỷ lệ vốn dài hạn. Nghiên cứu khai thác mặt cắt ngang của mẫu theo cách này cho phép kiểm tra mạnh mẽ hơn giả thuyết rằng vốn ảnh hưởng đến khả năng sinh lời khác nhau tùy thuộc vào việc các ngân hàng có ở trên hay dưới mức vốn tối ưu của chúng. Đặc điểm kỹ thuật cho phép tính không đồng nhất đáng kể của tỷ lệ vốn mục tiêu và trong mô hình lợi nhuận để nắm bắt chính xác liệu các ngân hàng có gần với tỷ lệ vốn tối ưu của họ hay không. Phân tích thấy rằng trong


khi mối quan hệ lâu dài giữa các tỷ lệ vốn và ROA luôn tích cực, thì có những ảnh hưởng bất đối xứng về độ lệch so với tỷ lệ vốn mục tiêu dài hạn; thâm hụt có xu hướng liên quan tích cực với ROA trong tương lai trong khi thặng dư có xu hướng liên quan chặt chẽ với ROA. Điều này phù hợp với lý thuyết cân đối về cấu trúc vốn và cho thấy rằng trong điều kiện căng thẳng, các ngân hàng có thể cải thiện khả năng sinh lời của họ bằng cách tăng tỷ lệ vốn. Những phát hiện này phần lớn ủng hộ các kết luận của Berger (1995) rằng các ngân hàng trong cuộc khủng hoảng tiết kiệm và cho vay cuối những năm 1980 đã có thể cải thiện khả năng sinh lời của họ bằng cách tăng tỷ lệ vốn của họ. Nghiên cứu nhận thấy rằng điều này đúng đối với các ngân hàng có rủi ro danh mục đầu tư cao. Những năm 1990 và đầu những năm 2000, sự không đối xứng không hoàn toàn rõ ràng và có rất ít bằng chứng cho thấy các ngân hàng vốn thấp có thể cải thiện khả năng sinh lời bằng cách tăng tỷ lệ vốn. Các tác giả tiếp tục tìm thấy một mối quan hệ tiêu cực mạnh mẽ đối với các ngân hàng có vốn cao so với tỷ lệ vốn mục tiêu dài hạn của họ. Những kết quả này có ý nghĩa chính sách quan trọng đối với hoạt động của các yêu cầu về vốn. Chi phí của các yêu cầu về vốn phụ thuộc vào nơi chúng được thiết lập liên quan đến mức vốn mong muốn của chính ngân hàng. Các biến nghiên cứu: ROE (SDROE), tỷ lệ cho vay thương mại và công nghiệp với tổng tài sản (C & I), tỷ lệ đánh đổi phí cho tổng tài sản (CHARGE), tỷ lệ nợ xấu trên tổng tài sản (NPL), tỷ lệ rủi ro trong tài sản (RW), cổ phiếu của ngân hàng của thị trường tiền gửi tại địa phương (BANKSHARE), chỉ số tập trung tại các thị trường địa phương của ngân hàng (HERF), tỷ lệ tiền gửi của ngân hàng trong thị trường (MSA), sự tăng trưởng của thị trường tiền gửi tại địa phương , tỷ lệ chi phí hoạt động trên tổng tài sản (AC) và chỉ số kích thước (size). Nghiên cứu cho thấy mối quan hệ tiêu cực mạnh mẽ giữa tỷ lệ tài sản và lợi nhuận không phụ thuộc vào quy mô của các ngân hàng. Các nhà nghiên cứu cũng cho biết hai lý do đòn bẩy cao của các ngân hàng Mỹ, đầu tiên là các ngân hàng này có yêu cầu về vốn tối thiểu để đảm bảo cho việc bảo vệ các ngân hàng trong điều kiện kinh tế bất ngờ và điều này tối ưu hoá nguồn vốn của họ, để giá trị của các ngân hàng sẽ được tối đa hóa. Thứ hai, nợ có lợi cho các ngân hàng vì lợi thế về thuế và trợ cấp của chính phủ đối với chi phí phá sản. Sau đó, các nhà nghiên cứu lập luậ n rằng nếu các yêu cầu về vốn tối thiểu là ràng buộc và thiết lập trên tỷ lệ vốn tối ưu của các ngân hàng, mối quan hệ giữa vốn và khả năng sinh lợi có thể là tiêu cực. Về cơ bản nghiên cứu nhận thấy rằng trong những giai đoạn khủng hoảng hoặc trong trong trường hợp thông tin bất cân xứng… thì tác động của cấu trúc tài chính tới hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại là ngược chiều.

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 05/12/2022