Phân Loại Tín Dụng Tiêu Dùng Của Các Công Ty Tài Chính Trực Thuộc Ngân Hàng Thương Mại



thuộc có đầy đủ các đặc điểm của TDTD của CTTC về các khía cạnh khách hàng, quy mô và số lượng khoản vay, lãi suất cấp tín dụng, kênh phân phối. Ngoài ra, xuất phát từ mối quan hệ sở hữu mẹ con và mục đích sở hữu CTTC trực thuộc của NHTM, TDTD của CTTC trực thuộc có những điểm khác biệt so với TDTD của CTTC độc lập, đó là các lợi thế/hạn chế trong hoạt động kinh doanh: mô hình kinh doanh, chiến lược phát triển, khẩu vị rủi ro, năng lực triển khai đa dạng sản phẩm TDTD, chia sẻ tập khách hàng và năng lực quản trị rủi ro...

a. Đặc điểm hoạt động tín dụng tiêu dùng của các công ty tài chính

Khách hàng vay vốn tiêu dùng chủ yếu là KHCN khó tiếp cận vay vốn từ NHTM

Đối tượng khách hàng được các CTTC nhắm tới hầu hết là các KHCN dưới chuẩn, khó tiếp cận vay vốn từ NHTM. Trên thực tế, CTTC cung cấp các sản phẩm TDTD tới tất cả đối tượng khách hàng cá nhân có nhu cầu vay vốn nhưng đặt trọng tâm vào các khách hàng dưới chuẩn nhằm phân định rõ mảng kinh doanh chiến lược giữa CTTC và NHTM. Đa phần các NHTM đều có quy định cụ thể điều kiện khách hàng vay vốn bao gồm: khách hàng có đủ năng lực pháp luật dân sự, nhu cầu vay vốn để sử dụng vào mục đích hợp pháp, có phương án sử dụng vốn khả thi và có khả năng tài chính để trả nợ. Như vậy, điều kiện có khả năng tài chính để trả nợ với chứng minh cụ thể bằng giấy tờ như hợp đồng lao động, sổ tiết kiệm, hợp đồng cho thuê nhà,.là rào cản các khách hàng không có thu nhập ổn định và có thể chứng minh được tiếp cận với NHTM để vay vốn. Tuy nhiên, với CTTC thì các bằng chứng trên không phải là điều kiện bắt buộc tiên quyết, nhiều CTTC dựa vào chứng minh thư, giấy tờ xe, sổ hộ khẩu, bảo hiểm xã hội…đã có thể ra quyết định cho vay khách hàng mà không yêu cầu phải chứng minh thu nhập. Việc vay vốn tiêu dùng đã giúp các KHCN vượt qua các khó khăn về thanh khoản, cho phép đáp ứng nhu cầu tiêu dùng đang ngày càng tăng lên đặc biệt đối với các KHCN có nguồn thu nhập trung bình, chưa có khả năng thanh toán toàn bộ ngay một khoản chi tiêu như mua ti vi, mua xe máy hay điện thoại di động, nhờ đó đã giúp KHCN nâng cao chất lượng cuộc sống và tạo ra công bằng xã hội.

Khoản cấp tín dụng thường nhỏ so với các khoản TDTD do NHTM cấp

Xuất phát từ chính nhu cầu tiêu dùng cơ bản của người dân và giá trị các món vay tiêu dùng, giá trị các khoản TDTD đa phần có giá trị nhỏ hơn rất nhiều so với các khoản vay mang mục đích sở hữu trong thời gian dài như vay mua nhà. Tuy nhiên, việc cung ứng các khoản vay có giá trị nhỏ là giải pháp các CTTC phân tán bớt rủi ro khi thực hiện cho vay các khách hàng dưới chuẩn.


Tiêu chuẩn tín dụng thường thấp hơn các khách hàng vay vốn NHTM

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 201 trang tài liệu này.

Cụm từ “cho vay dưới chuẩn” đang được dùng khá phổ biến và áp dụng đối với hoạt động TDTD của các CTTC. Đây cũng là điểm khác biệt khi định vị hoạt động TDTD của NHTM với hoạt động TDTD của CTTC. Đa phần các khách hàng vay vốn CTTC cho mục đích tiêu dùng không có khả năng tiếp cận với NHTM do thiếu lịch sử tín dụng, không có tài sản bảo đảm, không có khả năng vượt qua các điều kiện vay vốn ngặt nghèo và hệ thống chấm điểm tín dụng khắt khe của NHTM để được chấp nhận cho vay. Sự ra đời của CTTC tiêu dùng chính là giải pháp hữu hiệu để giúp các KHCN có tiêu chuẩn tín dụng thấp có thể tiếp cận ngay khoản vay với thời gian xử lý nhanh chóng tiện lợi, dĩ nhiên với sự đánh đổi chi phí vay vốn cao hơn nhiều so với đi vay NHTM.

Lãi suất cấp tín dụng thường cao hơn nhiều so với lãi suất cấp tín dụng của NHTM

Phát triển tín dụng tiêu dùng của các công ty tài chính trực thuộc ngân hàng thương mại ở Việt Nam - 6

So với lãi suất cấp tín dụng của NHTM, lãi suất cấp tín dụng của CTTC cao hơn gấp nhiều lần. Lãi suất cao được giải thích bởi một số lý do chính như sau:

Thứ nhất, đối tượng khách hàng của các CTTC tiêu dùng thường là tầng lớp người tiêu dùng có thu nhập thấp hơn so với khách hàng vay tiêu dùng của NHTM, không có hoặc chỉ có lịch sử tín dụng hạn chế. Thông thường, các NHTM thường coi đây là đối tượng phi chuẩn và các khách hàng này khó có khả năng tiếp cận NHTM để vay vốn. Do đó, khả năng vỡ nợ xảy ra cao hơn khi cho các đối tượng khách hàng này vay. Ngoài ra, đa phần các khoản cho vay tiêu dùng thường không có tài sản bảo đảm hoặc được đảm bảo bằng động sản do chính CTTC tài trợ như xe máy, đồ gia dụng. CTTC khó có có khả năng thu hồi tài sản bảo đảm khi xảy ra các sự kiện rủi ro. Đối mặt với các rủi ro lớn có khả năng mất vốn như vậy nên lãi suất cho vay cao nhằm bù đắp các rủi ro phát sinh.

Thứ hai, xuất phát từ cơ cấu giá của các sản phẩm TDTD có khác biệt so với sản phẩm ngân hàng truyền thống. Lãi suất cấp tín dụng của các CTTC thường rất đắt đỏ xuất phát từ bản chất của hoạt động cho vay. Các khoản TDTD thường có dư nợ nhỏ, thời hạn vay ngắn, thời gian xử lý khoản vay phải nhanh, các khoản trả nợ định kỳ nhiều và có giá trị nhỏ. Điều này làm tăng chi phí quản lý các quản vay của CTTC. Hơn nữa, chính vì có quá nhiều món vay nhỏ, CTTC chỉ thể có quản trị tốt chất lượng các khoản vay nhờ vào hệ thống công nghệ thông tin hiện đại. Thay vì đầu tư vào số lượng lớn nhân viên để xử lý và quản lý khoản vay, các CTTC thường thực hiện đầu tư vào các hệ thống công nghệ thông tin để có thể đánh giá và quản lý khách hàng, khởi



tạo khoản vay, theo dõi và thu về một số lượng rất lớn các khoản vay nhỏ, giúp nhà quản trị kiểm soát tốt hoạt động TDTD.

Thứ ba, chi phí huy động vốn của các CTTC thường cao hơn các NHTM. Các NHTM có thể sử dụng tiền huy động từ dân cư để thực hiện cho vay trong khi các CTTC chỉ được huy động vốn từ tổ chức. CTTC bị hạn chế bởi các nguồn huy động ngắn hạn dưới 12 tháng và chủ yếu huy động vốn từ nguồn vốn tự có, nguồn phát hành giấy tờ có giá trên 1 năm cho các TCTD hoặc vay vốn của các TCTD.

Kênh phân phối truyền thống có khác biệt so với NHTM

Dựa trên thời gian hình thành và trình độ khoa học kỹ thuật công nghệ, các CTTC tiêu dùng có thể triển khai hoạt động kinh doanh trên nhiều loại kênh bán hàng từ truyền thống đến hiện đại, cụ thể như sau:

- Kênh phân phối truyền thống: sự khác biệt giữa kênh phân phối truyền thống của NHTM và CTTC xuất phát hành nhu cầu và thói quen của khách hàng. Kênh phân phối truyền thống của NHTM là các chi nhánh phòng giao dịch trải rộng về mặt địa lý. Kênh phân phối truyền thống của các CTTC là các điểm giới thiệu dịch vụ được đặt tại các Trung tâm thương mại, cửa hàng bán lẻ… của các đối tác có ký kết hợp đồng hợp tác với CTTC. Các khách hàng đến mua sắm hàng hóa sẽ trực tiếp gửi hồ sơ vay vốn tại các điểm giới thiệu dịch vụ này. Ngoài ra, kênh phân phối qua nhân viên tư vấn tín dụng và telesales cũng là các điểm khác biệt lớn so với NHTM.

- Kênh phân phối hiện đại: cả NHTM và CTTC đều có điểm chung về kênh phân phối số, các sản phẩm cho vay đều được triển khai trên website hoặc mobile. Phương thức hợp tác với các công ty Fintech đều được NHTM và CTTC triển khai để giúp khách hàng thanh toán qua các ví điện tử liên kết trực tiếp với hệ thống lõi của các NHMT và CTTC. Điểm khác biệt riêng của NHTM xuất phát từ việc nâng cấp các chi nhánh và phòng giao dịch online và ứng dụng công nghệ robot và trí tuệ nhân tạo để khách hàng tự mình trải nghiệm dịch vụ, không cần có sự hỗ trợ của các nhân viên ngân hàng.

b. Đặc trưng hoạt động tín dụng tiêu dùng của CTTC trực thuộc NHTM

CTTC trực thuộc có đầy đủ đặc điểm hoạt động của CTTC nói chung được đề cập ở trên và có một số đặc điểm đặc thù dẫn tới các khác biệt về mô hình kinh doanh, nghĩa vụ và trách nhiệm với NHTM mẹ, và với khách hàng vay vốn.

Hoạt động TDTD của CTTC trực thuộc có mối liên hệ mật thiết với uy tín thương hiệu của NHTM mẹ

Mối quan hệ sở hữu mẹ con hoặc kiểm soát chi phối vừa là điểm thuận lợi vừa là điểm bất lợi đối với CTTC trực thuộc NHTM.



So với các CTTC độc lập, CTTC trực thuộc thuận lợi thu hút khách hàng vay vốn nhờ thương hiệu của NHTM mẹ, đặc biệt đối các khách hàng đã sử dụng dịch vụ của NHTM và hài lòng với chất lượng dịch vụ đang được NHTM cung cấp. Ngoài ra, các khách hàng mới chưa sử dụng dịch vụ NHTM nhưng đã biết đến thương hiệu của NHTM mẹ cũng yên tâm sử dụng sản phẩm của CTTC trực thuộc hơn so với các CTTC độc lập. Việc cung cấp các tiện ích cho CTTC trực thuộc qua hệ thống NHTM như giải ngân, thu nợ, hỗ trợ phát hành thẻ tín dụng nhựa đều góp phần giúp khách hàng tin tưởng vào hoạt động của CTTC trực thuộc.

Tuy nhiên, so với CTTC độc lập, CTTC trực thuộc trong hoạt động phát triển TDTD phải đi đôi với việc giữ gìn uy tín thương hiệu của NHTM mẹ. Do vậy, về khẩu vị rủi ro và các điều chỉnh khẩu vị rủi ro nhằm đạt được các mục tiêu về tăng trưởng, hiệu quả, các CTTC trực thuộc không thể linh hoạt và nhanh chóng như CTTC độc lập.

Chiến lược phát triển tín dụng tiêu dùng được định hướng bởi NHTM mẹ giúp CTTC trực thuộc phát triển dài hạn thay vì lợi ích ngắn hạn

Điểm khác biệt của CTTC độc lập và CTTC trực thuộc cũng thể hiện ở chiến lược phát triển TDTD. CTTC độc lập triển khai chiến lược phát triển dựa trên kinh nghiệm cá nhân Hội đồng thành viên/Hội đồng quản trị quyết định, các chiến lược phát triển có thể đem lại lợi ích ngay trong ngắn hạn do sức ép lợi nhuận từ các cổ đông góp nhưng có thể hạn chế trong phát triển dài hạn vốn. Các CTTC trực thuộc có chiến lược hoạt động gắn kết với chiến lược của NHTM. Với thế mạnh hoạt động trong ngành ngân hàng và nhiều kinh nghiệm trong tổ chức các mô hình kinh doanh trong nhiều thập kỷ, NHTM luôn xây dựng các chiến lược phát triển gồm cả ngắn hạn và tầm nhìn trung dài hạn để tạo ra sự tăng trưởng bền vững hiệu quả, các chiến lược này có ảnh hưởng lớn tới chiến lược hoạt động của CTTC trực thuộc, giúp các CTTC trực thuộc có định hướng phát triển dài hạn thay vì lợi ích ngắn hạn.

CTTC trực thuộc có năng lực tổ chức phát triển và quản lý sản phẩm nhờ hậu thuẫn của NHTM mẹ

Các CTTC trực thuộc nhờ hậu thuẫn từ NHTM mẹ có năng lực tổ chức phát triển và quản lý sản phẩm tốt nên có thể triển khai đa dạng các sản phẩm TDTD ngay trong các giai đoạn đầu thành lập, thay vì tập trung phát triển vào 1 mảng cho vay như thẻ tín dụng hoặc cho vay trả góp như các CTTC độc lập thường chọn lựa để phát triển. Nhờ vậy, CTTC trực thuộc có thể tiếp cận tới nhiều nhu cầu của KHCN và thỏa mãn tối đa các nhu cầu tiêu dùng phát sinh liên tục của KHCN, kết quả đem lại là tăng trưởng tập khách hàng, tăng trưởng doanh số cho vay và thị phần cho vay.


Chia sẻ tập khách hàng hiện hữu giữa NHMT mẹ và CTTC trực thuộc

Bản thân các NHTM đều đang sở hữu một tập KHCN rất lớn và có chất lượng. Đa phần các KHCN đã tiếp cận và sử dụng dịch vụ ngân hàng đều là các khách hàng đã có hiểu biết nhất định về các dịch vụ tài chính và có lịch sử giao dịch tài khoản hoặc giao dịch tín dụng với NHTM. Mặc dù phần đông đối tượng khách hàng của các CTTC trên thế giới có xu hướng dưới tiêu chuẩn và khó tiếp cận dịch vụ ngân hàng nhưng việc khai thác các nhóm khách hàng tiêu chuẩn của NHTM bởi CTTC trực thuộc là một lợi thế lớn nếu biết khai thác đúng cách. Một trong các lý do khiến các NHTM thường từ chối các KHCN muốn vay tiêu dùng chưa tính đến yếu tố rủi ro chủ yếu do quy mô các khoản vay quá nhỏ, trong khi đó, chi phí phát sinh bao gồm chi phí nguồn nhân lực, chi phí xét vay theo tiêu chuẩn ngân hàng và chi phí thu nợ quá tốn kém, dẫn tới lợi ích NHTM thu về từ hoạt động mặc dù cao hơn nhiều so với lợi ích cho vay các hoạt động tín dụng khác nhưng cũng không thể bù đắp chi phí phát sinh. Việc khai thác chung nhóm KHCN này giúp NHTM khai thác sâu KHCN, giữ chân KHCN trong phạm vi tập đoàn và tăng hiệu quả kinh doanh nhờ tránh được các quy định về trần lãi suất cho vay.

Năng lực quản trị rủi ro tín dụng là một lợi thế của CTTC trực thuộc giúp kiểm soát nợ xấu, đảm bảo an toàn trong hoạt động

Theo thông lệ quốc tế, các mô hinh quản trị rủi ro theo tiêu chuẩn quốc tế như Basel II đều được các NHTM ưu tiên áp dụng nhằm nâng cao năng lực quản trị rủi ro. Các mô hinh quản trị rủi ro và kinh nghiệm triển khai được CTTC trực thuộc kế thừa từ NHTM mẹ giúp tăng cường kiểm soát nợ xấu, đảm bảo an toàn trong hoạt động TDTD.

2.1.3. Phân loại tín dụng tiêu dùng của các công ty tài chính trực thuộc ngân hàng thương mại

2.1.3.1. Căn cứ vào cách thức hoàn trả

- TDTD trả góp: là phương thức cho vay trong đó khi KHCN vay vốn, CTTC và KHCN xác định và thỏa thuận số lãi vốn vay phải trả và số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay đã thỏa thuận. Phương thức này thường áp dụng cho các khoản vay không đủ khả năng thanh toán hết 1 lần số nợ vay.

- TDTD phi tuần hoàn: là phương thức cho vay trong đó khi KHCN vay vốn, CTTC và KHCN xác định và thỏa thuận số lãi vốn vay phải trả và số nợ gốc được trả 1 lần duy nhất trong thời hạn cho vay đã thỏa thuận. Phương thức này thường áp dụng cho các khoản đủ khả năng thanh toán hết 1 lần số nợ vay.



- TDTD tuần hoàn (xoay vòng): là phương thức cho vay trong đó CTTC thỏa thuận bằng văn bản cho phép KHCN sử dụng thẻ tín dụng hay các loại séc để thực hiện chi tiêu hoặc chi vượt số tiền có trên tài khoản thanh toán của KHCN trong một thời hạn và giới hạn nhất định. Chỉ khi nào KHCN sử dụng thẻ tín dụng hay chi vượt số tiền mới phát sinh dư nợ và lãi vay. Khác với cho vay theo món hay cho vay trả góp, KHCN được giải ngân nhiều lần với các mục đích chi tiêu khác nhau trong giới hạn hạn mức cho vay và trả nợ trong khoảng thời gian vay giới hạn đã thỏa thuận trước với CTTC.

2.1.3.2. Căn cứ vào biện pháp bảo đảm tiền vay

- TDTD có bảo đảm bằng tài sản: là các khoản TDTD được CTTC cấp cho KHCN trong đó nghĩa vụ trả nợ của KHCN được cam kết bảo đảm thực hiện bằng tài sản cầm cố, thế chấp của chính KHCN hoặc bảo lãnh của bên thứ 3. Với loại hình tín dụng này, CTTC gặp ít rủi ro về việc mất vốn hơn do có thể thực hiện phát mại tài sản để thu hồi vốn trong trường hợp KHCN không có khả năng trả nợ khoản vay.

- TDTD không có bảo đảm bằng tài sản: là các khoản TDTD được CTTC cấp cho KHCN trong đó nghĩa vụ trả nợ của KHCN không được cam kết bảo đảm thực hiện bằng tài sản cầm cố, thế chấp của chính KHCN hoặc bảo lãnh của bên thứ 3. Do loại hình tín dụng này khá rủi ro, CTTC thường chọn lọc và áp dụng đối với các đối tượng KHCN có uy tín và đảm bảo các tiêu chí cho vay cụ thể.

2.1.3.3. Căn cứ vào cách thức giải ngân

- TDTD giải ngân qua bên thứ ba: là khoản vay do CTTC giải ngân gián tiếp qua dịch vụ trung gian thanh toán IPS của các đối tác liên kết.

- TDTD dùng giải ngân trực tiếp: là hình thức cho vay tiêu dùng trong đó CTTC giải ngân trực tiếp khoản vay tới khách hàng bằng tiền mặt hoặc giải ngân trực tiếp cho đơn vị bán hàng.

2.1.3.4. Căn cứ vào chiến lược sản phẩm và mục đích tiêu dùng

- Nhóm sản phẩm TDTD cơ bản: CTTC chỉ cung cấp các nhóm sản phẩm TDTD cơ bản cho mục đích tiêu dùng bao gồm cho vay tiền mặt, cho vay mua phương tiện đi lại, điện thoại, điện máy, đồ gia dụng khác và thẻ tín dụng nhựa, cụ thể:

+ Cho vay tiền mặt: bao gồm sản phẩm cho vay tiền mặt tín chấp và sản phẩm cho vay tiền mặt có tài sản bảo đảm. Tùy thuộc vào khẩu vị rủi ro của từng CTTC tiêu dùng dẫn tới sự khác nhau về đặc điểm sản phẩm cho vay tiền mặt tín chấp ở các khía cạnh: số tiền cho vay tối đa/tối thiểu, thời hạn cho vay, độ tuổi vay vốn, hồ sơ yêu cầu, tín chấp hoặc có yêu cầu thế chấp. Tiền vay được giải ngân qua tài khoản của khách



hàng mở tại Ngân hàng hoặc nhận tiền mặt trực tiếp tại các Đơn vị chi hộ của CTTC tiêu dùng.

+ Cho vay phương tiện đi lại: được các CTTC tiêu dùng cung cấp cho khách hàng có nhu cầu mua xe máy, xe đạp điện, xe tải,… Thông thường các CTTC tiêu dùng sẽ xây dựng và cung ứng các sản phẩm cho vay với các đặc điểm riêng như số tiền cho vay, thời gian cho vay… theo các đối tác sản xuất phương tiện đi lại như Suzuki, Honda, SYM.

+ Cho vay hàng lâu bền: được các CTTC tiêu dùng cung cấp cho khách hàng có nhu cầu mua điện thoại, điện máy, đồ gia dụng hoặc các nhu cầu khác như nội thất.... Đây là các mặt hàng có giá trị và sử dụng lâu dài nên loại hình cho vay thường dưới dạng trả góp trong nhiều kỳ theo thỏa thuận giữa CTTC và khách hàng. Tiền vay được giải ngân trực tiếp cho người bán hàng là đối tác có thỏa thuận hợp tác với các CTTC tiêu dùng trước đó chứ không giải ngân cho người vay vốn.

+ Thẻ tín dụng: là một hình thức cho vay tiêu dùng tuần hoàn, trong đó CTTC thỏa thuận bằng văn bản cho phép khách hàng sử dụng thẻ tín dụng để thực hiện chi tiêu trong một thời hạn và giới hạn nhất định. Chỉ khi nào khách hàng sử dụng thẻ tín dụng mới phát sinh dư nợ và lãi vay. Khác với cho vay theo món hay cho vay trả góp, khách hàng được giải ngân nhiều lần với các mục đích chi tiêu khác nhau trong giới hạn hạn mức cho vay và trả nợ trong khoảng thời gian vay giới hạn đã thỏa thuận trước với CTTC. Thẻ tín dụng được phát hành cho khách hàng dưới hình thức thẻ nhựa vật chất. Đối với thẻ nhựa, khi khách hàng muốn chi tiêu khách hàng phải dựa trên thông tin thẻ được in trên bản nhựa để cung cấp cho đơn vị bán hàng để thực hiện nhu cầu tiêu dùng của mình.

- Nhóm sản phẩm TDTD số: CTTC cung cấp các sản phẩm TDTD số cho mục đích tiêu dùng bao gồm cho vay tiêu dùng online, thẻ tín dụng ảo, ví điện tử, cho vay ngang hàng…

+ Cho vay tiêu dùng online: khác biệt giữa cho vay tiêu dùng online và sản phẩm TDTD cơ bản chủ yếu ở phương thức nộp hồ sơ, xét duyệt và giải ngân khoản vay thông qua nền tảng web/dữ liệu di động, trong đó các khách hàng tương tác với CTTC tiêu dùng qua các nền tảng hiện đại này mà không cần phải tiếp xúc trực tiếp với cán bộ của CTTC tiêu dùng để được vay vốn. Tùy thuộc vào năng lực công nghệ và chiến lược kinh doanh/sản phẩm của từng CTTC tiêu dùng dẫn tới sự khác biệt về các sản phẩm cho vay tiêu dùng được cung ứng tới khách hàng.

+ Thẻ tín dụng ảo (Virtual card): đặc điểm tương tự thẻ tín dụng nhựa nhưng khác biệt ở hình thức phát hành. Thẻ tín dụng ảo có hình ảnh và thông tin thẻ giống hệt



thẻ tín dụng nhựa nhưng chỉ xem được và sử dụng trên màn hình điện thoại, thiết bị điện tử cho phép.

+ Ví điện tử: là hình thức cho vay tiền mặt để mua hàng, trong đó, CTTC tiêu dùng giải ngân khoản vay vào ví điện tử và khách hàng thực hiện mua hàng và thanh toán qua ví điện tử do CTTC tiêu dùng sở hữu. Các khoản vay tiêu dùng với nhu cầu thanh toán qua ví điện tử như thanh toán điện thoại, thanh toán tiền điện…Khách hàng sử dụng số thẻ tín dụng/hợp đồng/mã hợp đồng để thanh toán khoản chi tiêu của mình.

+ Cho vay ngang hàng: CTTC tiêu dùng giữ vai trò trung gian giữa người cho vay và người đi vay nhằm mục đích tiêu dùng thông qua một số nền tảng web/dữ liệu di động.

- Nhóm sản phẩm TDTD hỗn hợp: là hinh thức kết hợp giữa TDTD truyền thống và TDTD số, CTTC cung cấp tới khách hàng các sản phẩm TDTD thuộc nhóm TDTD cơ bản và các sản phẩm TDTD số.

2.1.4. Vai trò của hoạt động tín dụng tiêu dùng của các công ty tài chính trực thuộc ngân hàng thương mại

2.1.4.1. Đối với ngân hàng thương mại

Theo thông lệ quốc tế, NHTM mẹ thường sở hữu hoàn toàn hoặc chi phối các CTTC tiêu dùng nhằm các mục đích sau:

- Tăng vị thế của NHTM mẹ nhờ việc tăng trưởng thần tốc quy mô dư nợ TDTD và hiệu quả (đối với các NHTM có xuất phát điểm quy mô nhỏ).

- Tăng hiệu quả của NHTM mẹ nhờ lợi nhuận TDTD cao hơn so với mảng TDTD tiêu chuẩn.

- Giảm sức ép quản trị hoạt động TDTD dưới chuẩn đối với toàn bộ các đơn vị thuộc mô hình quản trị rủi ro trong NHTM mẹ.

- Tạo sự linh hoạt và tăng sức cạnh tranh đối với hoạt động TDTD dưới chuẩn với các đối thủ cạnh tranh là các CTTC, các công ty Fintech…

Tùy thuộc vào mục đích của từng NHTM mẹ mà các CTTC trực thuộc sẽ được triển khai hoạt động và phát triển TDTD nhằm đáp ứng các kỳ vọng của NHTM mẹ.

2.1.4.2. Đối với khách hàng

Các khách hàng được hưởng lợi từ hoạt động TDTD của các CTTC nói chung và các CTTC trực thuộc nói riêng như sau:

- Vai trò chung của CTTC đối với khách hàng: KHCN là những người được hưởng lợi nhiều và trực tiếp từ hoạt động TDTD của các CTTC. Trong quá khứ, người

Xem tất cả 201 trang.

Ngày đăng: 29/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí