dân thường chỉ hưởng thụ các sản phẩm tiêu dùng đắt đỏ nhờ vào các khoản tích lũy trong quá khứ và được sử dụng để chi trả cho hiện tại. Nhờ TDTD, các KHCN thay vì chỉ tiêu dùng trong phạm vi gia đình họ kiếm được nay được tiếp cận với loại hình dịch vụ tài chính mới, cho phép KHCN được sử dụng các sản phẩm tiêu dùng phong phú và hiện đại, được hưởng các tiện ích phục vụ cuộc sống như du lịch, giáo dục hay sử dụng khoản vay cho các mục đích cấp bách như y tế. Đặc biệt, nhờ sự phát triển của khoa học kỹ thuật, các KHCN không bị giới hạn bởi các sản phẩm cho vay nghèo nàn, đơn điệu và kém phù hợp, các CTTC có khả năng cung cấp rất nhiều loại hình sản phẩm TDTD khác nhau phù hợp nhất với nhu cầu đặc thù của từng nhóm KHCN như sinh viên mới ra trường, tầng lớp công chức… thông qua các kênh phân phối cho vay hiện đại và hiệu quả đồng thời có thể quản lý được tốt chất lượng khoản vay. Như vậy, KHCN ngày nay chính là chủ thể quan trọng được CTTC nhắm tới, phân loại và thiết kế may đo các sản phẩm tài chính phù hợp nhất theo nhiều tiêu chí phong phú như độ tuổi, thu nhập, nghề nghiệp, sản phẩm tiêu dùng để đảm bảo có thể cấp TDTD với quy mô tối đa.
TDTD còn là động lực lớn đối với các tầng lớp trẻ mới đi làm hay còn còn có tên là nhóm KHCN khởi nghiệp, giúp họ có thể ổn định cuộc sống ngay khi mới ra trường. Trên thực tế, đây chính là nhóm KHCN có nhu cầu tiêu dùng rất cao, có hiểu biết nhiều về mặt tài chính, là nguồn cơ sở tốt để xây dựng hệ thống cơ sở thông tin tín dụng mới. Việc chào mời sản phẩm TDTD với thủ tục đơn giản, không cần tài sản đảm bảo được đánh giá là rất tiềm năng đối với phân khúc KHCN này.
- Vai trò riêng của CTTC trực thuộc đối với khách hàng: ngoài vai trò cung ứng các sản phẩm TDTD tới khách hàng như các CTTC độc lập, CTTC trực thuộc luôn đi đầu trong nghiên cứu và triển khai các sản phẩm TDTD số, giúp khách hàng được trải nghiệm các sản phẩm số có giá trị gia tăng và hưởng các dịch vụ trên nền tảng công nghệ mới nhất. Ngoài ra, với lợi thế về tiềm lực tài chính, CTTC trực thuộc có lợi thế so với CTTC độc lập khi triển khai được liên tục các chương trình xúc tiến bán hàng và các ưu đãi về lãi suất, quà tặng cho các khách hàng vay vốn.
Bên cạnh lợi ích rõ ràng của TDTD đối với các KHCN, vẫn còn nhiều mặt trái, xuất phát từ nội tại các CTTC nói chung và CTTC trực thuộc nói riêng, trong trường hợp các CTTC không tuân thủ quy định nhà nước, quy định nội bộ.
2.1.4.3. Đối với nền kinh tế
TDTD có sự liên thông nhất định đối với chu kỳ của nền kinh tế. Khi nền kinh tế tăng trưởng tốt, người dân có việc làm và thu thập tốt có thể sẵn sàng chi tiêu nhiều hơn với sự tin tưởng vào các khoản thu nhập tăng trưởng trong tương lai, nhờ vậy
Có thể bạn quan tâm!
- Kết Luận Rút Ra Từ Tổng Quan Tình Hình Nghiên Cứu
- Tín Dụng Tiêu Dùng Của Các Công Ty Tài Chính Trực Thuộc Ngân Hàng Thương Mại
- Phân Loại Tín Dụng Tiêu Dùng Của Các Công Ty Tài Chính Trực Thuộc Ngân Hàng Thương Mại
- Chỉ Tiêu Đánh Giá Mức Độ Phát Triển Tín Dụng Tiêu Dùng Của Công Ty Tài Chính Trực Thuộc Ngân Hàng Thương Mại
- Các Yếu Tố Thuộc Về Ngân Hàng Thương Mại Sở Hữu Công Ty Tài Chính
- Về Quản Lý Nhà Nước Đối Với Sự Phát Triển Tín Dụng Tiêu Dùng Của Công Ty Tài Chính
Xem toàn bộ 201 trang tài liệu này.
TDTD cũng có mức tăng trưởng tương ứng. Ngược lại, khi chi tiêu của người dân ở các quốc gia có dấu hiệu kinh tế sụt giảm, thất nghiệp gia tăng cũng sẽ sụt giảm đáng kể dẫn tới sụt giảm quy mô TDTD ở các tổ chức tài chính. Sau đây là một số lợi ích thiết thực TDTD mang lại cho nền kinh tế:
- Thứ nhất, đối với doanh nghiệp, TDTD giúp người dân mua sắm nhiều hơn, sức mua sắm của cả thị trường tăng nghĩa là các doanh nghiệp bán được nhiều hàng hóa hơn, góp phần tăng quy mô sản xuất và tăng trưởng hoạt động kinh doanh. Cũng chính vì người tiêu dùng có quyền được chọn lựa các sản phẩm kỹ càng hơn nên các doanh nghiệp sẽ phải không ngừng cạnh tranh, nghiên cứu tạo ra các sản phẩm tiêu dùng đa dạng và chất lượng, giá cả phải chăng, góp phần đào thải các doanh nghiệp yếu kém và loại bỏ các loại hàng hóa kém chất lượng dần ra khỏi lưu thông.
- Thứ hai, về mặt xã hội, nhờ sức cầu mua sắm trong nước gia tăng, làm tăng đóng góp trong cơ cấu tổng sản phẩm quốc nội, dẫn tới hạn chế sự phụ thuộc vào cầu nước ngoài. Nhờ vậy, TDTD góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững hơn.
- Thứ ba, TDTD là nhân tố tích cực “hạn chế tín dụng đen” nhờ đưa các hoạt động TDTD từ giao dịch dân sự thành các giao dịch pháp lý an toàn, minh bạch cho người vay vốn, bảo vệ quyền lợi của người vay vốn và chống lại các tiêu cực trong xã hội.
2.2. Phát triển tín dụng tiêu dùng của các công ty tài chính trực thuộc ngân hàng thương mại
2.1.1. Quan niệm về phát triển tín dụng tiêu dùng của công ty tài chính trực thuộc ngân hàng thương mại
Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về phát triển. Theo từ điển bách khoa (2018) cho rằng phát triển được thể hiện qua sự biến đổi hoặc làm cho biến đổi sự vật từ ít đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp. Quan điểm này chủ yếu đề cập sự phát triển về lượng chưa có sự gắn với yếu tố xã hội hay kinh tế. Theo quan điểm của Gerard Crellet (2000), phát triển là quá trình một xã hội đạt đến thỏa mãn các nhu cầu cơ bản. Quan điểm này lấy xã hội là yếu tố trọng tâm của sự phát triển, chỉ khi nào xã hội thỏa mãn những nhu cầu cơ bản mới coi là phát triển. Tuy nhiên, quan điểm này chưa rộng và chưa có tính bao phủ các chủ thể khác nhau. Theo triết học Mác Lê Nin (1994) “Phát triển là sự vận động theo hướng đi lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật”. Quan điểm này đã coi phát triển là quá trình biến đổi cả lượng và chất, có thể mở rộng áp dụng cho các chủ thể nghiên cứu khác nhau như xã hội, nền kinh tế…
Những năm gần đây, vấn đề phát triển TDTD đã được các nhà khoa học trong
và ngoài nước nghiên cứu. Tại Việt Nam, nhiều nhà khoa học kinh tế đã thể hiện quan điểm “Phát triển TDTD là phát triển về quy mô và chất lượng tín dụng tiêu dùng” tại các công trình nghiên cứu của mình như Nguyễn Thị Minh (2019), Nguyễn Thái Hà (2017) Nguyễn Thị Kim Thanh (2015), Phùng Việt Hà (2015), Vũ Văn Thực (2014).
Vận dụng các quan điểm trên về phát triển và ứng dụng với hoạt động TDTD của các CTTC trực thuộc, tác giả cho rằng: “Phát triển TDTD của các CTTC trực thuộc NHTM là quá trình tăng trưởng về lượng (quy mô, số lượng), và đảm bảo chất lượng hoạt động TDTD”. Đứng trên góc độ tiếp cận từ chuyên ngành kinh doanh thương mại, sự phát triển TDTD về lượng được thực hiện thông qua các phương thức: sản phẩm, kênh phân phối, thị trường, giá cả... Đồng thời, để đảm bảo chất lượng TDTD, CTTC trực thuộc cần triển khai mô hình và phương thức tổ chức quản lý rủi ro thích hợp để đảm bảo an toàn tín dụng.
2.1.2. Nội dung phát triển tín dụng tiêu dùng của các công ty tài chính trực thuộc ngân hàng thương mại
2.1.2.1. Phát triển tín dụng tiêu dùng về lượng
Để tăng trưởng TDTD về quy mô và số lượng, có nhiều cách thức khác nhau. Dưới góc độ kinh doanh thương mại, năm phương thức trọng tâm thường được các CTTC trực thuộc vận dụng trong phát triển TDTD gồm: sản phẩm TDTD, kênh phân phối, thị trường, xúc tiến bán hàng và lãi suất cho vay. Tùy theo điều kiện, đặc điểm cụ thể trong từng giai đoạn phát triển và chiến lược riêng, mỗi CTTC trực thuộc có thể sắp xếp các phương thức trên theo thứ tự ưu tiên khác nhau. Việc triển khai các phương thức phát triển TDTD theo đúng chiến lược kinh doanh đảm bảo sự phát triển TDTD, giúp các CTTC trực thuộc thỏa mãn tối đa các nhu cầu tiêu dùng của KHCN, từ đó khai thác sâu các KHCN đang có và mở rộng số lượng KHCN mới, góp phần tăng thị phần của các CTTC trực thuộc trên thị trường, nâng cao hình ảnh và vị thế của các CTTC trực thuộc, tăng sức cạnh tranh trên thị trường và đón đầu các cơ hội đến từ hội nhập quốc tế.
Sản phẩm TDTD
- Phát triển TDTD bằng các nhóm sản phẩm TDTD cơ bản: tập trung vào các nhóm sản phẩm TDTD cơ bản đang còn nhiều dư địa phát triển bao gồm cho vay tiền mặt, cho vay phương tiện đi lại, cho vay hàng lâu bền và thẻ tín dụng nhựa. Do các sản phẩm cơ bản không yêu cầu nền tảng công nghệ thông tin phức tạp, năng lực tổ chức phát triển sản phẩm có thể kế thừa từ NHTM mẹ. CTTC trực thuộc tùy thuộc vào khẩu vị và chiến lược tập trung phân khúc khách hàng để triển khai các gói sản phẩm cơ bản
nhưng có sự khác biệt về giá trị cho vay, hồ sơ yêu cầu, tỷ lệ trả trước (áp dụng cho sản phẩm cho vay trả góp), lãi suất cho vay…Dấu hiệu phát triển TDTD qua sản phẩm TDTD cơ bản của CTTC trực thuộc được thể hiện ở năng lực triển khai đầy đủ danh mục sản phẩm TDTD cơ bản.
- Phát triển TDTD bằng các sản phẩm TDTD số: tập trung vào các sản phẩm các sản phẩm TDTD số như thẻ tín dụng ảo, cho vay online, IPS, sản phẩm cho vay ngang hàng P2P… Các CTTC trực thuộc triển khai sản phẩm TDTD số cần có năng lực tổ chức triển khai các sản phẩm TDTD số.
- Phát triển TDTD bằng các sản phẩm TDTD hỗn hợp bao gồm sản phẩm TDTD cơ bản và sản phẩm TDTD số: dấu hiệu phát triển được nhận biết khi các CTTC trực thuộc đã triển khai thành công các sản phẩm TDTD cơ bản và đang chuyển dịch dần sang sản phẩm TDTD số. Việc triển khai thành công một đến hai sản phẩm TDTD số chính là kết quả của chiến lược sản phẩm TDTD số trong ngắn hạn.
Kênh phân phối
CTTC trực thuộc có thể đạt được việc tăng quy mô thông qua phát triển các kênh phân phối truyền thống và hiện đại tùy thuộc vào năng lực triển khai và sản phẩm TDTD triển khai.
- Nhóm các kênh phân phối truyền thống: là các kênh phân phối sản phẩm TDTD tới khách hàng của CTTC với sự hỗ trợ của con người bao gồm Điểm giới thiệu dịch vụ (POS), nhân viên tư vấn tín dụng (DSA), telesales,…trong đó quan trọng nhất là Điểm giới thiệu dịch vụ và Nhân viên tư vấn tín dụng.
+ POS: Điểm giới thiệu dịch vụ là một đơn vị phụ thuộc của CTTC được đặt tại các đại lý/đối tác đã ký hợp đồng với CTTC để giới thiệu các sản phẩm TDTD, có nhiệm vụ thu thập thông tin, nhu cầu vay vốn của khách hàng nhằm hỗ trợ các khách hàng có nhu cầu vay vốn để mua các sản phẩm do đại lý/đối tác bán. Điểm giới thiệu dịch vụ ra đời và phát triển cùng với nhu cầu vay vốn nhằm mục đích mua và sử dụng các hàng hóa dịch vụ có tính lâu bền. Tùy thuộc quy định của các CTTC, POS có thể triển khai cho vay các mặt hàng được bán bởi đối tác hoặc cho vay tiền mặt. Tuy nhiên, theo tìm hiểu của tác giả, đa số các POS chỉ tập trung cho vay các sản phẩm được phân phối bởi đại lý/đối tác.
+ Nhân viên tư vấn tín dụng (DSA): DSA có nhiệm vụ chủ động tìm kiếm và phát triển mạng lưới khách hàng, giới thiệu khách hàng sử dụng dịch vụ, hướng dẫn khách hàng hoàn thành thủ tục hồ sơ vay vốn… DSA có thể thực hiện tiếp xúc trực tiếp với khách hàng để giới thiệu dịch vụ vay vốn hoặc tiếp xúc gián tiếp qua điện
thoại để giới thiệu khoản vay. DSA chủ yếu tập trung triển khai các sản phẩm cho vay tiền mặt và không phụ thuộc vào địa điểm bán hàng cụ thể.
+ Telesales: là hình thức bán hàng qua điện thoại của CTTC. Nhân viên Telesales có nhiệm vụ gọi điện cho khách hàng để tư vấn sản phẩm, giải đáp thắc của khách hàng liên quan tới sản phẩm, xử lý hồ sơ vay đầu vào. Khác biệt giữa Telesales và DSA ở phương thức giao tiếp trong đó Telesales chỉ giao tiếp với khách hàng qua điện thoại từ vị trí làm việc cố định trong khi DSA khá linh hoạt trong giao tiếp với khách hàng. DSA có thể giao tiếp với khách hàng gián tiếp thông qua điện thoại cá nhân thay vì sử dụng tổng đài để kết nối với khách hàng.
+ Đối tác: là tổ chức có thỏa thuận hợp tác với CTTC để triển khai giới thiệu sản phẩm TDTD của CTTC tới khách hàng tiềm năng. Tùy thuộc phạm vi hợp tác đã thỏa thuận, Đối tác có thể cung cấp một trong các dịch vụ sau cho CTTC: tìm kiếm và phát hiện khách hàng có nhu cầu vay vốn cho mục đích tiêu dùng, trực tiếp hoặc kết hợp với nhân viên của CTTC giới thiệu sản phẩm TDTD của CTTC tới khách hàng, hỗ trợ thu thập hồ sơ vay vốn từ khách hàng...Theo khía cạnh kênh phân phối, đối tác hoàn thành bán hàng khi khách hàng đã hoàn tất thủ tục vay vốn và được giải ngân khoản vay từ CTTC.
- Nhóm các kênh phân phối hiện đại: gồm các kênh phân phối sản phẩm TDTD tới khách hàng của CTTC không có hỗ trợ của con người mà dựa trên nền tảng số. Một số kênh bán hàng hiện tại được triển khai trên nền tảng Web hoặc APP điện thoại di động. Dấu hiệu chuyển dịch thành công kênh phân phối hiện đại của CTTC thể hiện ở năng lực triển khai một hoặc đầy đủ các kênh phân phối hiện đại dưới đây:
+ Phân phối qua kênh Web: kênh tiếp nhận nhu cầu vay vốn tiêu dùng của khách hàng trên nền tảng web, trong đó toàn bộ các công đoạn xử lý khoản vay của khách hàng cho tới lúc giải ngân khoản vay đều được thực hiện tự động mà không có sự can thiệp của con người.
+ Phân phối qua kênh APP điện thoại di động: kênh tiếp nhận nhu cầu vay vốn tiêu dùng của khách hàng trên nền tảng APP điện thoại di động, toàn bộ các công đoạn xử lý khoản vay của khách hàng cho tới lúc giải ngân khoản vay đều được thực hiện tự động mà không có sự can thiệp của con người.
Thị trường
CTTC trực thuộc có thể lựa chọn các hình thức phát triển thị trường theo tiêu chí địa lý hành chính, theo các tập khách hàng mục tiêu nhằm hoạch định và tổ chức triển khai sản phẩm TDTD tới KHCN. Theo phạm vi khu vực địa lý, CTTC trực thuộc
sẽ xác định thị trường mà họ muốn thực hiện kinh doanh và triển khai các điểm giới thiệu dịch vụ. Trên thực tế, hầu hết các CTTC trực thuộc đều có mục triển khai phạm vi hoạt động trên tất cả các địa bàn kinh doanh mà NHTM mẹ đang hiện diện và thậm chí trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam nếu năng lực quản trị và nguồn lực bản thân CTTC trực thuộc cho phép. Mục tiêu chính của việc mở rộng phạm vi kinh doanh về mặt địa lý chính là để thu hút thêm nhiều KHCN mới trên địa bàn mới, gia tăng thị phần và KHCN và từ đó tăng được quy mô và hiệu quả kinh doanh. Việc phát triển thị trường về mặt địa lý sẽ đem lại sự phát triển lớn với CTTC trực thuộc. Đối với việc phát triển thị trường trên khía cạnh khách hàng, CTTC thực hiện đa dạng hóa khách hàng bằng phương pháp phân loại các phân khúc khách hàng thành các phân khúc nhỏ hơn theo cấp độ dựa trên ma trận các đặc thù về tiêu dùng (xu hướng tiêu dùng, hành vi tiêu dùng, đặc tính về xã hội địa lý…) và kết hợp với các tiêu chí như độ tuổi, thu nhập, vùng miền, giới trẻ, giới văn phòng, đối tượng thuộc các công ty nhà nước, đặc điểm gia đình (độc thân, có 1 con, 2 con…, người già về hưu), sở hữu tài sản (có nhà, không có nhà, có xe máy, không có xe máy..)…Các tiêu chí phân loại thường được các CTTC xác định dựa trên việc nghiên cứu chuyên sâu các báo cáo tiêu dùng và nghiên cứu về thị trường tiêu dùng trước khi được đưa vào mô hình hóa trên hệ thống để tạo lập các phân nhóm nhỏ và siêu nhỏ nhằm tiến hành thiết kế sản phẩm, chính sách giá và xúc tiến bán hàng. Việc mở rộng thị trường theo phân khúc khách hàng đảm bảo các sản phẩm TDTD đáp ứng được nhu cầu khách hàng, đem lại giá trị gia tăng cho khách hàng cũng như đưa ra các tính năng sản phẩm nổi trội và khác biệt với các đối thủ cạnh tranh đồng thời tạo lập ưu thế của các CTTC trực thuộc NHTM trên thị trường.
Xúc tiến bán hàng
Xúc tiến bán hàng là một hoạt động trong marketing mix được CTTC trực thuộc sử dụng trong phát triển TDTD. Đối tượng xúc tiến bán hàng là khách hàng cá nhân. Nội dung và hình thức xúc tiến bán hàng có những khác biệt nhất định tùy theo kênh và chương trình xúc tiến.
- Xúc tiến bán hàng qua kênh POS: tại các điểm giới thiệu dịch vụ/ các đại lý của CTTC trực thuộc như trung tâm thương mại, điện máy, cửa hàng bán lẻ, CTTC thực hiện các hình thức quảng cáo sản phẩm qua banner, standee, tờ rơi và thông qua lực lượng bán hàng trực tiếp và cá nhân. Lực lượng bán hàng trực tiếp là nhân viên bán hàng của đối tác tại các điểm POS trực tiếp tiếp cận với khách hàng mục tiêu, truyền tải thông tin về CTTC trực thuộc, sản phẩm TDTD và các chương trình xúc tiến bán hàng của CTTC trực thuộc. Lực lượng bán hàng cá nhân là cán bộ CTTC ngồi tại điểm bán có nhiệm vụ giới thiệu sản phẩm TDTD trực tiếp cho khách hàng tiềm năng, trực
tiếp cung cấp thông tin và nhận phản hồi trực tiếp từ phía khách hàng.
- Xúc tiến bán hàng qua kênh DSA: kênh xúc tiến bán hàng thông qua chuyên viên tư vấn tín dụng có mức độ linh hoạt cao hơn so với lực lượng bán hàng cá nhân tại POS. DSA có tính chủ động cao và tìm kiếm các khách hàng tiềm năng để giới thiệu sản phẩm và các chương trình xúc tiến bán hàng của CTTC. Do sự khác biệt chủ yếu về sản phẩm TDTD bán tới khách hàng, DSA tập trung xúc tiến trực tiếp hoặc gián tiếp bán các sản phẩm cho vay tiền mặt tới khách hàng.
- Xúc tiến bán hàng qua kênh Telesales: chuyên viên tổng đài có vai trò truyền thông các sản phẩm TDTD tới khách hàng, cập nhật các chương trình xúc tiến bán hàng tới khách hàng qua tổng đài điện thoại cố định của CTTC.
- Xúc tiến bán hàng qua Website của CTTC trực thuộc: Đây là kênh xúc tiến đầy đủ và cập nhật các chương trình xúc tiến bán hàng do thuộc sở hữu của CTTC trực thuộc.
- Xúc tiến bán hàng qua kênh SMS: Khi CTTC trực thuộc đã có tệp khách hàng hiện hữu và tệp khách hàng tiềm năng, các CTTC sẽ triển khai gửi tin nhắn thường xuyên cập nhật các chương trình xúc tiến bán hàng tới khách hàng.
- Xúc tiến bán hàng qua Tạp chí, báo giấy, báo điện tử: kênh quảng cáo khá điển hình nhằm phủ sóng rộng rãi tới công chúng về hình ảnh, sản phẩm, chương trình xúc tiến bán hàng của CTTC trực thuộc.
- Xúc tiến bán hàng qua kênh APP điện thoại di động: Nội dung truyền thông trên kênh APP thường tập trung vào các chương trình xúc tiến bán hàng giúp khách hàng cập nhật kịp thời và ra quyết định vay vốn.
- Xúc tiến bán hàng theo chương trình nhằm thúc đẩy doanh số và tạo khách hàng trung thành:
+ Chương trình lãi suất 0 đồng: là chương trình áp dụng cho các khách hàng mua hàng từ đối tác của CTTC trực thuộc trong đó khách hàng không phải trả lãi suất vay trong một khoảng thời gian nhất định. Thông thường các CTTC sẽ được các đối tác chi trả toàn bộ hoặc một phần lãi suất vay trên cơ sở số tiền giải ngân cho khách hàng. Các CTTC trực thuộc có tiềm lực tài chính tốt cũng có thể kích cầu qua chương trình này trong khoảng thời gian ngắn và thu lãi vay trong khoảng thời gian còn lại mà không cần tới hỗ trợ của đối tác.
+ Chương trình giảm lãi suất: là chương trình khá phổ biến và được CTTC trực thuộc áp dụng khi muốn thu hút khách hàng vay vốn từ đối thủ cạnh tranh hoặc khuyến khích các khách hàng hiện hữu vay vốn.
+ Chương trình hoàn tiền: CTTC trực thuộc hoàn lại một phần lãi suất cho khách hàng trong quá trình vay vốn nếu đáp ứng được các điều kiện như hoàn trả gốc và lãi đúng thời hạn.
+ Chương trình tặng voucher du lịch: khách hàng vay vốn được tặng các phiếu giảm giá khi mua các chương trình du lịch từ đối tác của CTTC trực thuộc hoặc các khoản vay có giá trị lớn sẽ nhận được các voucher du lịch có giá trị cao đủ để thanh toán một phần hoặc toàn bộ tiền dịch vụ cư trú.
+ Chương trình tặng voucher hàng hóa: khách hàng vay vốn được tặng quà là hàng hóa nhằm tăng mức độ hài lòng của khách hàng khi sử dụng sản phẩm của CTTC.
+ Tích điểm thành viên: các khách hàng vay vốn được tích điểm thành viên khi tham gia vay vốn, số điểm tích được quy đổi theo số tiền vay vốn và có giá trị sử dụng trong lần vay vốn tiếp theo. Mức độ quy đổi điểm thành viên tùy thuộc chính sách của từng CTTC. CTTC cũng có thể tặng điểm nếu khách hàng trả nợ đầy đủ và đúng hạn.
Lãi suất cho vay
Các CTTC tiêu dùng là chủ thể cung ứng TDTD hợp pháp với lãi suất cho vay cao nhất trên thị trường, cao hơn nhiều so với lãi suất cho vay tiêu dùng của NHTM. Các khoản TDTD của CTTC cũng có sự chênh lệch về lãi suất, trong đó lãi suất các khoản vay theo hình thức trả góp thường thấp hơn các khoản vay tiền mặt và thẻ tín dụng. Các CTTC cũng có thể xây dựng các chương trình kinh doanh áp dụng lãi suất cho vay thấp hơn đối với các sản phẩm cho vay online nhờ giảm được chi phí cơ sở vật chất và chi phí vận hành.
Trong cấu trúc hình thành chi phí lãi suất có bốn cấu phần chính để tạo nên chi phí lãi suất bao gồm chi phí vốn đầu vào, chi phí hoạt động, chi phí dự phòng và lợi nhuận. Nghiên cứu của Paul F.Smith (1964) khảo sát về các khoản vay tiêu dùng của CTTC và NHTM cho thấy lãi suất cấp tín dụng của CTTC cao gấp 2,39 lần lãi suất cấp tín dụng tại các NHTM trong khi chi phí dự phòng dự kiến cao gấp 7,07 lần (mức tổn thất thực tế thậm chí cao hơn nhiều), chi phí hoạt động và chi phí vốn cao hơn 2,65 lần và 2,77 lần.
Như vậy, tùy thuộc vào các chi phí đầu vào và dự phòng rủi ro, các CTTC trực thuộc sẽ thiết lập mức lãi suất cho vay đáp ứng lợi nhuận kỳ vọng từng thời kỳ.
2.1.2.2. Phát triển tín dụng tiêu dùng về mặt chất
Phát triển TDTD về mặt chất của CTTC nhằm mục đích phát triển TDTD an toàn và hiệu quả được thể hiện ở các nội dung: triển khai mô hình quản trị rủi ro tín dụng hiệu quả, chính sách cấp tín dụng và quy trình cấp tín dụng.