Tác động cột sống phần 1 - 7

Lẽ tất nhiên phải qua một thời gian luyện tập thì mới bảo đảm được sự quy định của nguyên tắc đã đề ra.

Trong điều kiện hiện nay, công trình nghiên cứu chưa được trang bị những thiết bị theo yêu cầu, sự so sánh chênh lệch của các đặc trưng ghi trên đây là căn cứ vào sự nhận biết được của các thủ thuật đã được luyện tập.

1.5. Nguyên tắc đối xứng trong trị bệnh

Trong trị bệnh nguyên tắc đối xứng có những vai trò sau:

- Theo dõi sự thay đổi độ chênh lệch của các đặc trưng đối lập để đánh giá sự tiến triển của bệnh.

- Là cơ sở để áp dụng thủ thuật song chỉnh trong thao tác trị bệnh

1.5.1. Sự thay đổi độ chênh lệch của hiện tượng đối lập

Trong trị bệnh các hiện tượng đối lập thường thay đổi ngay khi thao tác trong: Hệ gân cơ; nhiệt độ da; Cảm giác cột sống.

- Trên hệ gân cơ: những hiện tượng đối lập là:

+ Gân cơ co với gân cơ duỗi

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 66 trang tài liệu này.

+ Gân cơ cứng với gân cơ mềm

+ Gân cơ dầy với gân cơ mỏng

Tác động cột sống phần 1 - 7

Trong khi thao tác thì khu vực gân cơ co sẽ trở thành thư nhuận, khu vực gân cơ duỗi đối xứng sẽ trở thành lực cơ tăng, khu vực gân cơ cứng đối xứng và khu vực gân cơ mềm sẽ thay đổi, cứng trở thành thư nhuận, mềm nhược sẽ tăng lực cơ. Như vậy chức năng hoạt động của gân cơ sẽ trở lại cân bằng, nghĩa là xóa được hai hiện tượng đối lập, và bệnh hết v.v…

- Nhiệt độ da: Hai hiện tượng đối lập là nhiệt độ da quá cao và quá thấp sẽ được điều chỉnh trở lại cân bằng trong khi thao tác, khu vực nhiệt độ quá cao sẽ giảm dần xuống bình thường, khu vực nhiệt độ quá thấp sẽ tăng dần trở lại nhiệt độ bình thường, bệnh hết v.v…

- Cảm giác trên cột sống: Hai hiện tượng đối lập trên cột sống là cảm giác đau và cảm giác tê.

Trong khi thao tác trị bệnh thì khu vực đau nhiều sẽ giảm đau dần rồi hết đau, khu vực tê đối xứng từ tê nhiều đến tê ít rồi hết tê, trở lại cảm giác nhanh

nhạy bình thường, bệnh hết v.v…

Do đó nguyên tắc đối xứng là cơ sở để so sánh sự tiến triển của bệnh.

1.5.2. Cơ sở của song chỉnh

Phương pháp tác động cột sống quy định về phương thức thao tác trị bệnh có đơn chỉnh và song chỉnh.

Đơn chỉnh là chỉ tác động tại một điểm ở trên hệ cột sống. Song chỉnh là tác động đồng thời tại hai khu vực một lúc (một là ở khu vựng cột sống và một là ở ngoại vi).

Cơ sở của phương pháp song chỉnh là đối xứng đặc trưng.

- Ở bên phải đốt sống có ổ rối loạn (tức là có cảm giác đau và cơ co cộm) thì ở bên cơ lưng phía trái đốt sống nhất thiết phải có khu vực có cảm giác đau, tức là hai điểm đau đối xứng.

- Hai điểm đau đối xứng còn có liên quan tương ứng với nhau: nếu tác động ở điểm đau của ngoại vi thì ta sẽ thấy điểm đau ở trên đốt sống máy động, nếu tác động ở điểm đau trên cột sống thì điểm đau ở ngoại vi giảm đau và thay đổi hình thái. Nếu hai điểm đau được tác động cùng một lúc thì ổ rối loạn trên cột sống mau giải tỏa và ổ rối loạn ngoại vi cũng tiêu tan, bệnh hết.

Do đó mà nguyên tắc đối xứng là cơ sở của phương thức song chỉnh trong trị bệnh.

1.6. Tóm tắt

Nguyên tắc đối xứng là cơ sở để so sánh sự đối lập và thống nhất mọi hoạt động của khu vực và đặc trưng theo quy định của phương pháp, là cơ sở của chẩn bệnh và trị bệnh, là cơ sở để xây dựng và phát triển phương pháp tác động cột sống ngày một phong phú, và chính nguyên tắc đối xứng trong phương pháp tác động cột sống lại là trung tâm để kết hợp được với các trường phái và các ngành trong y học.

2. Nguyên tắc hưng phấn

Theo quy định của nguyên tắc đối xứng thì hưng phấn và ức chế là hai mặt cân bằng của cột sống có thể xuất hiện ở cả một khu vực rộng lớn, hoặc chỉ ở một phần nhỏ trên cột sống.

Cơ sở để so sánh những hiện tượng hưng phấn và ức chế là các đặc trưng:

1. Hưng phấn: đốt sống lồi, lệch, lớp cơ đệm co, cứng, cảm giác đau tăng, nhiệt độ da cao.

2. Ức chế: đốt sống lõm, lớp cơ đệm teo, nhược, cảm giác giảm, nhiệt độ da thấp.

Phương pháp tác động cột sống trị bệnh dựa vào nguyên lý ức chế sự phát triển hưng phấn tại điểm hưng phấn, tạo điều kiện cho cơ chế tự điều chỉnh, phục hồi sự cân bằng giữa quá trình hưng phấn và ức chế trên hệ cột sống bằng cách tác động tại khu vực hưng phấn. Tuyệt đối không tác động tại điểm ức chế.

Dựa vào nguyên lý trên, phương pháp tác động cột sống căn cứ vào điểm hưng phấn làm cơ sở cho chẩn đoán, phân loại và xác định trọng điểm.

Khu vực ức chế không có trọng điểm.

Do đó nguyên tắc hưng phấn là một trong những cơ sở để chẩn bệnh theo phương pháp tác động cột sống.

Để phân biệt được khu vực hưng phấn vào ức chế, phương pháp tác động cột sống dùng thủ thuật áp để xác định sự biến đổi về nhiệt độ da quá cao và quá thấp.

Sau đó áp dụng thủ thuật vuốt để xác định hình thái đốt sống lồi, lõm; lệch và lớp cơ đệm co, cứng hoặc teo, nhược…

Nguyên tắc hưng phấn là cơ sở để xác lập nguyên tắc định điểm sau này.

3. Nguyên tắc định khu – định điểm

Cơ sở để xác định bệnh là nhiệt độ trên cột sống. Nhiệt độ cột sống bị biến đổi là một hiện tượng của cơ thể bệnh lí. Một khi cơ quan nội tạng hay một bộ phận nào của cơ thể bị bệnh thì sự biến đổi về nhiệt độ cột sống biểu hiện ở các khu vực tương ứng, cụ thể bệnh huyết áp thường biểu hiện ở vùng cổ, bệnh về tuần hoàn, hô hấp thường biểu hiện ở vùng lưng trên, bệnh về tiêu hóa thường biểu hiện ở vùng giữa lưng, và bệnh về thận thường biểu hiện ở vùng thắt lưng.

Nhưng trên một cơ thể bệnh ít gặp trường hợp chỉ có sự biến đổi về nhiệt độ của một vùng, mà trên hệ cột sống thường thấy nhiều vùng có biến đổi về nhiệt độ.

Trên hệ cột sống của từng người bệnh cụ thể bao giờ cũng có ổ rối loạn. Rối loạn trên một đốt sống gọi là đơn, và rối loạn trên nhiều đốt sống liền nhau gọi là liên.

Nhưng ít có người bệnh chỉ có một ổ rối loạn mà phần lớn người bệnh có nhiều ổ rối loạn trên hệ cột sống, gọi là khu vực rối loạn.

Trong các ổ rối loạn đó bao giờ cũng phải có một ổ rối loạn lớn nhất được coi là nguồn gốc của các hiện tượng rối loạn ngưng tụ trên hệ cột sống người bệnh, và cũng có thể nói là “gốc bệnh”.

Do đó định khu là tìm ra khu vực tập trung các ổ rối loạn, trong đó khu vực có ổ rối loạn lớn nhất gọi là trọng khu; định điểm là tìm ra điểm có rối loạn, trong các điểm rối loạn lại tìm ra ổ rối loạn lớn nhất gọi là trọng điểm.

Vấn đề trọng khu và trọng điểm được đề cập ở đây là một trong các nguyên tắc của Phương pháp tác động cột sống.

Các thủ thuật viên cần nắm vững nguyên tắc này thì khi tác động trị bệnh mới tránh được sai sót vì:

- Khi xử lý các ổ rối loạn trên hệ cột sống người bệnh, nếu tác động đúng trọng khu thì chỉ cần xử lý ở một trọng điểm cũng đủ đủ làm cho trọng khu mau thay đổi, các ổ rối loạn khác tiêu tan.

- Nếu xử lý không đúng trọng khu và trọng điểm thì triệu trứng bệnh có thể giảm nhẹ nhưng không hết được bệnh, có thể đến một thời gian nào đó bệnh lại tái phát. Hơn nữa mức độ thuyên giảm chậm kéo dài thời gian điều trị vô ích.

* Đặc điểm: Trọng khu và trọng điểm dễ xê dịch trong khi thao tác.

- Có khi tác động tại một trọng điểm thì trọng khu thay đổi tức thời, nghĩa là nhiệt độ giảm, lớp cơ đỡ co, cảm giác đỡ đau. Lúc này thủ thuật viên cần tìm lại trọng khu mới - tức là điểm tập trung các rối loạn cao nhất lúc đó - và tìm trọng điểm mới trong trọng khu mới để tiếp tục thao tác.

- Có trường hợp mới tác động ngắn, trọng khu chưa thay đổi, nhưng trọng điểm thay đổi tức thì, thủ thuật viên phải luôn thăm dò nhiệt độ và kịp thời xác định trọng điểm mới để trị bệnh, tiếp tục đến khi giải tỏa được ổ rối loạn

- Phương pháp tác động cột sống căn cứ vào nguyên tắc hưng phấn để xác

định trọng khu và trọng điểm, nghĩa là trọng khu và trọng điểm nằm trong khu vực hưng phấn và không quy định trọng điểm ở điểm ức chế.

4. Nguyên tắc tạo sóng cảm giác

Cảm giác đau ở hệ cột sống gồm có:

- Cảm giác đau do hệ cột sống.

- Cảm giác đau do bệnh của các tổ chức khác trong cơ thể.

Cảm giác đau do hệ cột sống: Do chính cột sống có bệnh gây ra đau đớn, mặc dầu không có sự tác động của khách quan (cụ thể như gai đôi, lồi đĩa đệm, vôi hóa, thoái hóa và các bệnh khác về đốt xương sống v.v…).

Cảm giác đau do bệnh của các tổ chức khác trong cơ thể: Khi một tổ chức nào đó của cơ thể bị bệnh, người bệnh không tự cảm thấy đau ở cột sống, chỉ khi nào có sự tác động khách quan thì người bệnh mới cảm thấy đau.

Về hình thức, tác động là nhu thuật, cho nên nó chỉ có giá trị tạo được cảm giác đau đối với trọng điểm ở trong ổ rối loạn, ngoài ra hình thức tác động này không có giá trị tạo được cảm giác đau đối với khu vực bình thường.

Đặc tính cảm giác đau ở trọng điểm cột sống: Điểm cảm giác đau tại trọng điểm của cột sống nếu được tác động thì ở điểm đó cảm giác đau sẽ từ đau nhất đến giảm đau rồi đến hết đau hoàn toàn.

Cảm giác đau với phản ứng co cơ: Điểm cảm giác đau ở trong trọng điểm cụ thể cho thấy một khi được tác động tới thì có liền sự phản ứng của gân cơ gây co. Khi ngừng tác động thì gân cơ buông trùng lại. Nếu tác động mau thì gân cơ co và trùng mau, tác động thưa thì gân cơ co và trùng thưa. Nếu tác động gây cảm giác đau kéo dài thì gân cơ gây co kéo dài.

Do đó phương pháp tác động cột sống đã lấy cảm giác đau tại trọng điểm để gây sự phản ứng của gân cơ co trùng xen kẽ nhịp nhàng thành lớp lớp sóng thích hợp nhất giải tỏa ổ rối loạn khu trú trên hệ cột sống, và qua đó cũng chính là đồng thời phục hồi lại sự cân bằng của cơ thể.Từ đó đã hình thành tên gọi sóng cảm giác.

Sau đây xin giới thiệu về sự phản ứng gây co cơ khi tác động tạo sóng cảm giác tại trọng điểm.

Sự phản ứng của cơ thể trong khi tác động trị liệu: Trong khi tác động trên cột sống để trị bệnh, tạo cảm giác đau tại trọng điểm, bao giờ trên cơ thể người bệnh cũng có những phản ứng nhất định chia thành hai loại: Loại phản ứng dương tính và loại phản ứng âm tính.

- Loại phản ứng dương tính có các thể:

+ Thể phản ứng dương tính toàn thân là khi tác động tới trọng điểm thì người bệnh liền có sự phản ứng co giật toàn thân, gân cơ cứng lại, khi không tác động thì gân cơ trùng lại.

+ Thể phản ứng dương tính cục bộ là khi tác động tới trọng điểm thì người bệnh liền có sự phản ứng co giật gân cơ từ vùng trọng điểm lan tỏa sang tới các khu vực nhất định, khi ngừng tác động thì gân cơ trùng lại (chức năng vận động).

+ Thể phản ứng dương tính hệ cột sống là khi tác động tới trọng điểm thì người bệnh liền có sự phản ứng co lồi ở trên hệ cột sống, khi ngừng tác động thì gân cơ trùng lại, hệ cột sống trở lại bình thường (thích hợp với bệnh ở trên các đốt sống lõm) .

+ Thể phản ứng dương tính trên trọng điểm là khi tác động tới trọng điểm thì người bệnh liền có sự phản ứng cơ co máy động ở trọng điểm, khi ngừng tác động thì lớp cơ co ở trọng điểm cũng ngừng máy động (thích hợp với các đốt sống lệch).

- Loại phản ứng âm tính có các thể:

+ Thể phản ứng âm tính hệ cột sống là khi tác động tại trọng điểm thì người bệnh liền có sự phản ứng co oằn cột sống, tại cột sống không có hiện tượng máy động. Khi ngừng tác động thì sự phản ứng cũng ngưng lại.

Khi điều trị gặp phản ứng này là biểu hiện sự điều trị gần đến ngưỡng, cần giải tỏa hết ổ rối loạn, thầy thuốc phải nhanh chóng tác động tiếp để giải tỏa ổ bệnh, không được bỏ lỡ cơ hội.

+ Thể phản ứng âm tính tại trọng điểm là khi tác động tại trọng điểm thì người bệnh liền có sự phản ứng co lõm tại trọng điểm, không có sự lan tỏa. Trường hợp này thích hợp với đốt sống lồi.

Từ cơ sở trên, phương pháp tác động cột sống đã xây dựng các nguyên tắc, các phương thức, các tư thế và các thủ thuật trị liệu riêng.

5. Nguyên tắc định lực thao tác

Định lực thao tác là sự quy định sức mạnh của thầy thuốc được phép dồn vào đầu ngón tay để thao tác trị bệnh. Sức mạnh này từ nhẹ nhất đến mạnh nhất được quy định như sau:

- Sức mạnh của một ngón tay ứng dụng cho các trọng điểm khu trú tại vùng lưng trên từ D1 đến D7 và vùng cụt.

Hình thức của thủ thuật thao tác: Đặt nghiêng bàn tay trên lưng người bệnh, ngón tay út và ngón tay thứ tư co vào lòng bàn tay, dùng ngón giữa để thao tác tại trọng điểm. Tùy theo loại, thể rối loạn mà dùng lực nhẹ nhất đến mạnh nhất của ngón tay.

- Sức mạnh của một bàn tay ứng dụng cho các trọng điểm khu trú tại vùng cổ từ C1 đến C7.

Hình thức của thủ thuật thao tác: Đặt úp lòng bàn tay trên lưng người bệnh, dùng dận bàn tay làm điểm tì, lấy ngón giữa hoặc ngón cái tác động tại trọng điểm, tùy theo loại, thể và rối loạn mà dùng lực từ nhẹ nhất là bằng lực nhẹ nhất của ngón tay cho đến lực tối đa của bàn tay.

- Sức mạnh của một cánh tay co ứng dụng cho các trọng điểm khu trú tại vùng lưng từ D8 đến D12.

Hình thức của thủ thuật thao tác: Co cánh tay thành góc thước thợ, cánh tay trên khép sát thân mình theo phương dây rọi, dùng ngón tay cái hoặc ngón tay giữa để thao tác tại trọng điểm. Tùy theo các loại và thể rối loạn mà dùng lực từ nhẹ nhất bằng lực nhẹ nhất của một ngón tay và mạnh nhất bằng lực của cánh tay co.

- Sức mạnh của cánh tay thẳng ứng dụng cho các trọng điểm khu trú ở vùng thắt lưng từ L1 đến L5.

Hình thức của thủ thuật thao tác: Duỗi thẳng cánh tay, dùng ngón tay cái hoặc dận bàn tay để thao tác tại trọng điểm, tùy theo loại và thể rối loạn mà dùng lực từ nhẹ nhất bằng lực nhẹ nhất của một ngón tay, và mạnh nhất bằng lực của cả một cánh tay.

- Sức mạnh của toàn thân thầy thuốc ứng dụng cho các trọng điểm khu trú tại vùng hông từ S1 đến S5.

Hình thức của thủ thuật thao tác: Duỗi thẳng cánh tay dồn toàn bộ trọng lượng của mình vào dận bàn tay để thao tác tại trọng điểm. Tùy theo loại và thể rối loạn mà dùng lực nhẹ bằng lực nhẹ nhất của ngón tay, cho đến mạnh nhất là toàn lực của thầy thuốc.

* Các trường hợp ngoại lệ:

- Loại mỏng, mềm, thể ngoài thì bất cứ ở khu vực nào trên cột sống cũng chỉ áp dụng bằng lực của một ngón tay, tác động nhẹ nhàng.

- Loại xơ, cứng bất cứ ở thể nào và khu trú ở khu vực nào trên cột sống cũng chỉ áp dụng bằng lực của cánh tay co.

- Loại co cứng, dầy, thể ngoài ngón tay không ấn tới đầu gai sống được thì phải đắp cua đồng cho giãn cơ rồi mới dùng lực thao tác như đã nói ở trên.

6. Nguyên tắc định hướng

Khi tác động trị bệnh phải có một hướng nhất định. Phương pháp tác động cột sống căn cứ vào trục cột sống làm chỗ dựa để tìm tòi các thuật trị thích hợp, đồng thời dùng trục cột sống làm cơ sở để hướng mọi kích thích như gân cơ, đốt xương trở lại cân bằng.

Trục theo phương pháp tác động cột sống quan niệm là ống tủy, các hiện tượng co cơ, các biến đổi hình thái của đốt sống, các rối loạn về nhiệt độ và cảm giác ở trên cột sống đều lấy trục nói trên làm đường đối xứng để so sánh giữa hai bên.

Để ứng dụng cho các hướng thích hợp với các thể và loại rối loạn cụ thể, phương pháp tác động cột sống đã quy định như sau:

- Đốt đống lồi tác động theo hướng thẳng từ ngoài vào trong.

- Lồi phần trên, dưới khuyết: tác động theo hướng từ trên xuống. Ngược lại, nếu phần dưới lồi, phần trên khuyết thì tác động theo hướng từ dưới lên.

- Phần trên lồi, dưới không khuyết, hoặc dưới lồi, trên không khuyết đều tác động theo hướng thẳng từ ngoài vào trong.

- Đốt sống lồi lệch một phần (trên hoặc dưới), hay lồi lệch cả đốt: tác động theo hướng chếch 45o từ ngoài vào trong lực đẩy phía lồi lệch sang phía khuyết.

Xem tất cả 66 trang.

Ngày đăng: 10/03/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí