Những Công Trình Nghiên Cứu Về Nghệ Thuật Tự Sự Trong Truyện Ngắn Sau 1975 Của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng


Truyện ngắn Việt Nam sau 1975 đã được nhiều nhà nghiên cứu, phê bình quan tâm, đặc biệt là nghiên cứu từ góc nhìn tự sự, một vấn đề lí luận mới mẻ và còn nhiều “lời ngỏ”. Cuốn 50 năm - Văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám

[153] được chia làm ba phần: Đặc điểm, diện mạo, hướng tiếp cận; Văn học và chiến tranh cách mạng; Những vấn đề thi pháp thể loại. Trong đó, chúng tôi chú ý đến bài viết Mấy nhận xét về nhân vật của văn xuôi Việt Nam sau 1975 của Nguyễn Thị Bình [153, tr. 207 - 227]. Sau khi xác định tiêu chí, nguyên tắc xây dựng nhân vật của văn học sau 1975 trong thế đối sánh với văn học trước 1975, tác giả bài viết đã khẳng định nét mới rò nhất trong việc xây dựng nhân vật là sự thay đổi mối quan hệ giữa tác giả và nhân vật, giữa nhà văn và bạn đọc. Đó là “mối quan hệ bình đẳng, là xu thế đối thoại dân chủ giữa nhiều ý thức, mỗi nhân vật có thể có một điểm nhìn đời sống độc lập với điểm nhìn của tác giả” [153, tr. 218].

Văn học Việt Nam thế kỷ XX - Những vấn đề lịch sử và lí luận [46] là công trình khoa học trọng điểm của Đại học Quốc Gia Hà Nội do một tập thể Viện sĩ, Giáo sư, Phó giáo sư, Tiến sĩ thuộc Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Viện Văn học, Đại học Sư phạm Hà Nội hợp tác biên soạn. Công trình đã dành hẳn phần ba để nghiên cứu về “Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 - 2000”. Trong đó, chương VI đề cập đến “Một số vấn đề thi pháp truyện ngắn hiện đại Việt Nam”. Các tác giả cho rằng giai đoạn 1975 - 2000 là “thời của truyện ngắn”, truyện ngắn thực sự khởi sắc, “các nhà văn đã có công tìm tòi nghệ thuật làm cho thể loại “nhỏ” có sức chứa”, “có khả năng khái quát hóa nghệ thuật đời sống theo chiều sâu” [46, tr. 261]. Và sau đó, họ tập trung nghiên cứu vào hai nhà văn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp - những tên tuổi được dư luận quan tâm và có vị trí trên văn đàn. Nguyễn Minh Châu được đánh giá là “một phong cách đa dạng và biến ảo vì thế giọng điệu cũng luân phiên cho phù hợp với đối tượng” với “giọng chủ âm là trữ tình lo âu”, gần cuối đời có hiện tượng pha giọng. Còn Nguyễn Huy Thiệp là nhà văn “có công tìm tòi làm cho truyện ngắn đa dạng về hình thức”, là một hiện tượng văn học “hai lần lạ”, truyện ngắn của ông “có sức mạnh ở các chi tiết nghệ thuật”. Ta nhận thấy, bàn về vấn đề thi pháp truyện ngắn hiện đại Việt Nam, các tác giả đã


bày tỏ quan điểm về tình huống truyện, cốt truyện, các kiểu truyện ngắn hiện đại nghệ thuật kể chuyện từ góc nhìn tự sự học. Tuy nhiên, những nhận xét vẫn chỉ dừng ở những nhận định khái quát, điểm xuyết mà chưa đi sâu vào nghiên cứu cấu trúc văn bản truyện kể.

Văn học Việt Nam sau 1975 - những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy [158] là cuốn sách tập hợp những bài viết của Hội thảo khoa học do khoa Ngữ văn - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội tổ chức. Cuốn sách được tập hợp theo ba phần: Những vấn đề chung; Những vấn đề về văn xuôi Những vấn đề về thơ. Chúng tôi quan tâm đến bài viết Quan niệm về thể tài truyện ngắn trong văn học Việt Nam sau 1975 của Phùng Ngọc Kiếm [158, tr. 192 - 202], Nghiên cứu và dạy học truyện ngắn hiện đại của Nguyễn Thanh Hùng [158, tr. 293 - 299], Một vài khuynh hướng vận động của điểm nhìn trong văn xuôi Việt Nam sau 1975 của Nguyễn Văn Hiếu. Trong đó, bài viết của Nguyễn Văn Hiếu [158, tr. 300 - 306] tìm hiểu về sự vận động của điểm nhìn nghệ thuật trong tiến trình của văn xuôi sau 1975. Bài viết đã chỉ ra những khuynh hướng vận động nổi bật của điểm nhìn như: khuynh hướng cá thể hóa, khuynh hướng đối thoại, khuynh hướng gián cách. Người viết khẳng định: “Dấu ấn cá tính trong điểm nhìn trần thuật dần trở thành một tiêu chí của giá trị, một mối quan tâm của văn chương. Cá thể hóa là khuynh hướng vận động tất yếu của điểm nhìn, phù hợp với nhu cầu của nhà văn và yêu cầu của thời đại”; “Sức nặng của điểm nhìn mang tính đối thoại, một mặt xác lập các chuẩn mực mới, nhưng mặt khác nó đã làm nảy sinh ở người đọc tâm lí tự vấn trước hiện thực được kể đến”; “Nhà văn là NKC thường di chuyển điểm nhìn theo nhiều chủ thể khác nhau”; “Gián cách đòi hỏi người cầm bút phải tìm cách viết khác, người đọc phải hình thành một thị hiếu khác, phê bình văn học phải hình thành bậc thang giá trị khác” [158, tr. 300 - 305]. Tuy nhiên, những nhận xét này mới chỉ nằm trong khuôn khổ của một bài viết nên sự lí giải chưa thực thấu đáo.

Tập hợp tâm huyết của nhiều nhà nghiên cứu phê bình, cuốn Truyện ngắn Việt Nam - Lịch sử, thi pháp, chân dung [47] do Phan Cự Đệ chủ biên đã được xuất bản năm 2007. Cuốn sách dày gần 800 trang nghiên cứu hai vấn đề là Truyện


ngắn Việt Nam thời kỳ trung đại Truyện ngắn Việt Nam thời kỳ hiện đại. Các tác giả cũng tập trung làm rò lịch sử phát triển của các khuynh hướng và loại hình truyện ngắn (chỉ ra những nguyên nhân của quá trình đổi mới truyện ngắn từ 1976 - 2006); đặc trưng của thể loại truyện ngắn hiện đại, truyện ngắn trong mối quan hệ với các thể loại khác). Các tác giả đã lí giải về đặc trưng thi pháp của truyện ngắn hiện đại như kết cấu và cốt truyện, khoảnh khắc và tình huống; các kiểu của truyện ngắn hiện đại như truyện ngắn mang tầm khái quát cao, truyện ngắn liên hoàn và các kiểu truyện ngắn khác. Từ những vấn đề lí luận đó, các tác giả đã tiến hành nghiên cứu và định hình phong cách truyện ngắn của các thế hệ nhà văn từ Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Nam Cao… đến các nhà văn kháng chiến như: Anh Đức, Nguyễn Thi, Nguyễn Quang Sáng… và sau 1975 như: Lê Minh Khuê, Nguyễn Huy Thiệp…

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 179 trang tài liệu này.

Cuốn Tự sự học, những vấn đề lịch sử và lí luận [165] do Trần Đình Sử chủ biên đã tập hợp những bài viết về một số vấn đề cơ bản của lý thuyết tự sự học và những bài viết vận dụng lý thuyết tự sự học vào tìm hiểu văn liệu cụ thể. Chúng tôi đặc biệt chú ý tới bài viết Đổi mới ngôn ngữ và giọng điệu - một thành công đáng chú ý của văn xuôi sau 1975 của Nguyễn Thị Bình [165, tr. 351 - 367]. Tác giả bài viết đề cập đến hai khía cạnh trong sự chuyển động mạnh mẽ của văn xuôi sau 1975 là ngôn ngữ giọng điệu. Qua khảo sát, tác giả bài viết đã định dạng những phong cách ngôn ngữ mới: ngôn ngữ mang nhãn quan hiện thực, đời thường (Nguyễn Huy Thiệp, Lê Lựu, Nguyễn Khắc Trường, Tạ Duy Anh…); ngôn ngữ tăng cường tính tốc độ, thông tin và tính triết luận (Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài…). Sự đa dạng về giọng điệu cũng là nét mới của văn học sau 1975. Tác giả chỉ ra bên cạnh giọng tự tin, tự hào xuất hiện giọng hoài nghi trong sáng tác của Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Tô Hoài, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp…; giọng chất vấn, đay đả trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, Ma Văn Kháng…; giọng từng trải, chiêm nghiệm trong sáng tác của Nguyễn Khải, Lê Lựu, Chu Lai, Phạm Hải Vân, Nguyễn Việt Hà…; giọng giễu nhại trong sáng tác của các nhà văn trẻ… Từ đó, tác giả đưa ra nhận xét khái quát: “Mười năm đầu sau khi cuộc chiến tranh chống Mĩ kết thúc, văn xuôi nước ta mang giọng chủ


Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 qua truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng - 3

đạo trầm tĩnh, khách quan. Từ khoảng giữa thập kỷ 80, nổi lên giọng phê phán, phân tích xã hội (…). Sau đó giọng phê phán trầm xuống (…). Giọng điệu văn xuôi dần mang nhiều suy tư khắc khoải, nhiều chiêm nghiệm về thế sự nhân sinh. Từ đầu thập kỷ 90, nó bắt đầu thăng bằng lại, tự điều chỉnh những ồn ào thái quá” [165, tr. 367]. Đó là cái nhìn khá tinh tế và sắc sảo. Tuy nhiên, mọi sự phân tích, lý giải chỉ nằm trong phạm vi của một bài viết.

Sự xuất hiện của thi pháp học hiện đại và những thành tựu của nó đối với lĩnh vực nghiên cứu và giảng dạy văn học ở nước ta là sự nỗ lực của nhiều người, trong đó phải kể đến vai trò quan trọng của GS.TS. Trần Đình Sử. Nhân dịp kỷ niệm 70 năm ngày sinh của ông, Nguyễn Đăng Điệp - Nguyễn Văn Tùng đã tuyển chọn và biên soạn công trình Thi pháp học ở Việt Nam [53]. Công trình gồm ba phần: Phần I: Toàn cảnh thi pháp học (bức tranh toàn cảnh thi pháp học từ truyền thống đến hiện đại; các khuynh hướng thi pháp học trên thế giới); Phần II: Tuyển chọn những công trình tiêu biểu (bằng chứng cụ thể, sinh động nhất về sức sống và tính hiệu quả của thi pháp học trong đời sống nghiên cứu văn học); Phần III: Ấn tượng Trần Đình Sử (những đánh giá, nhận định về GS.TS. Trần Đình Sử). Trong công trình này, bài viết của Lê Huy Bắc về Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại [53, tr. 335 - 346] đã nêu ra những vấn đề mà chúng tôi đang quan tâm như khái niệm giọng (voice), giọng điệu (tone hoặc tone of view) và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại. Tác giả đã tập trung vào ba kiểu giọng điệu thể hiện hai trạng thái tâm lí của NKC là giọng điệu dửng dưng hoài niệm; giọng điệu trung tính (người kể chuyện giữ sắc giọng bình thường khi trần thuật các sự kiện, hành động); giọng điệu vô âm sắc (thái độ lạnh lùng); giọng điệu cảm xúc (bộc lộ cảm xúc, tâm trạng, những chiêm nghiệm sâu xa...).

Văn học Việt Nam sau 1975 có vị trí quan trọng trong dòng chảy của văn học dân tộc. Vì thế, những năm gần đây. Nó cũng được dành một vị trí xứng đáng trong văn học nhà trường, cuốn Giáo trình Văn học Việt Nam hiện đại, tập 2 (từ sau Cách mạng tháng Tám 1945) [123] xuất bản đã đáp ứng nhu cầu giảng dạy và học tập của đông đảo các nhà giáo, học sinh, sinh viên. Chương X của giáo trình đề cập đến nội dung “Văn xuôi từ sau 1975” đã chỉ ra những đổi mới về tư tưởng và nghệ


thuật (vấn đề đổi mới quan niệm về hiện thực, đổi mới quan niệm về con người và đổi mới quan niệm trần thuật) và những đổi mới văn xuôi từ góc độ thể loại.

Những công trình nghiên cứu được đề cập, ở mức độ và phạm vi khác nhau cũng đã phần nào bàn về văn xuôi, truyện ngắn Việt Nam sau 1975 theo hướng tự sự học dưới góc độ thi pháp. Tuy nhiên, phần nghiên cứu chỉ trong dung lượng bài viết, bài tham luận hoặc một chương, mục (một phần của cuốn sách). Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi cũng chú ý đến các luận án, luận văn. Thành quả khoa học của những người đi trước là những gợi dẫn quan trọng để chúng tôi triển khai thực hiện đề tài.

Với mục đích nhận diện gương mặt văn xuôi giai đoạn sau 1975 và góp phần ít nhiều vào việc giảng dạy, nghiên cứu giai đoạn văn học này, Nguyễn Thị Huệ đã tiến hành khảo sát và lí giải những dấu hiệu đầu tiên của đổi mới văn học. Kết quả đó được thể hiện trong Luận án tiến sĩ Những dấu hiệu đổi mới trong văn xuôi Việt Nam 1980 đến 1986 qua bốn tác giả: Nguyễn Minh Châu - Nguyễn Khải - Ma Văn Kháng - Nguyễn Mạnh Tuấn [81]. Trong công trình này, người viết đã mô tả và lý giải sự chuyển đổi trong quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người qua bốn tác tác giả Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Nguyễn Mạnh Tuấn; đồng thời nhận diện một số dấu hiệu vận động của thể loại (sự chuyển đổi cảm hứng nghệ thuật, đặc điểm mới của không gian - thời gian nghệ thuật và sự chuyển đổi của tư duy tiểu thuyết, dấu hiệu đa thanh trong nghệ thuật trần thuật) và sự chuyển động của ngôn ngữ (từ ngôn ngữ sử thi đến ngôn ngữ dung dị như chính cuộc sống hồn nhiên vốn có hôm nay, ngôn ngữ mang đậm cá tính nhân vật và cá tính nhà văn, ngôn ngữ mang đậm tính phóng sự, tính chính luận và tính triết luận). Tác giả luận án cho rằng: “Sự đổi mới về giọng điệu vừa là hệ quả lại cũng vừa là tác nhân tạo ra sự phát triển trong tư duy nghệ thuật”; “Sự “vỡ ra” về giọng điệu cũng như sự linh hoạt, sống động, giàu chất đời thường của ngôn ngữ đã đem đến cho văn xuôi một chất lượng mới” [81, tr. 200]. Ở thời điểm ra đời của luận án (1998), đây là những kiến giải và phát hiện mới của người viết. Tuy nhiên, công trình này chỉ nghiên cứu các sáng tác văn xuôi trong giai đoạn 1980 - 1986.


Tác giả thiên về mô tả, lí giải sự vận động của thể loại và những tín hiệu đổi mới mà không nghiên cứu các tác phẩm từ góc nhìn tự sự học.

Nói đến văn học Việt Nam giai đoạn sau 1975 là nói đến một nền văn học sau chiến tranh với nhiều dấu hiệu của sự đổi mới về mặt kỹ thuật, trong đó có đổi mới về kỹ thuật điểm nhìn và ngôn ngữ kể chuyện. Nắm bắt được tính cấp thiết của vấn đề, Luận án tiến sĩ với đề tài Ngôn ngữ kể chuyện trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 (Điểm nhìn và ngôn ngữ kể chuyện) [190] của Nguyễn Thị Thu Thủy đã tiến hành nghiên cứu hai phương diện là phương thức kể thoại dẫn. Luận án đã xây dựng được cơ sở lý thuyết về điểm nhìn, đưa ra một khái niệm điểm nhìn cụ thể và khái quát cho nhiều góc độ, chỉ ra được các nhân tố, các tính chất của điểm nhìn mà các công trình trước đây chưa đề cập một cách có hệ thống. Tính thực tế của đề tài cũng rất cao: đưa ra cách xác định, phân tích và thể hiện điểm nhìn trong truyện một cách có căn cứ, dựa vào lý thuyết điểm nhìn có thể phân loại truyện kể một cách thấu đáo. Những kết luận khoa học của luận án đã là những gợi dẫn thú vị đối với chúng tôi trong quá trình thực hiện đề tài.

Trong phần Tổng quan về vấn đề nghiên cứu, chúng tôi còn muốn nói tới một công trình bàn về thi pháp truyện ngắn Việt Nam đương đại. Đó là Luận án tiến sĩ của Lê Thị Hương Thuỷ với đề tài Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay (nhìn từ góc độ thể loại) [191]. Luận án đề cập đến những vấn đề như: Truyện ngắn - Quan niệm và sự đổi mới tư duy thể loại; Các dạng thức xây dựng nhân vật và tổ chức kết cấu văn bản truyện ngắn; Ngôn ngữ và điểm nhìn trần thuật. Từ những vấn đề nghiên cứu ấy, luận án góp phần làm sáng rò một số vấn đề thuộc về lí luận thể loại, về những đặc điểm khu biệt và sự tương tác thể loại qua việc khảo sát truyện ngắn sau 1986, đánh giá một phương diện của văn học sử qua việc tìm hiểu thể loại truyện ngắn trong đời sống văn học đương đại.

Đặt văn xuôi 1975 - 1985 trong tiến trình của văn học Việt Nam hiện đại, Luận án tiến sĩ Văn xuôi Việt Nam thời kỳ hậu chiến (1975 - 1985) của Ngô Thu Thuỷ

[189] đã góp phần khẳng định mối quan hệ giữa văn học và đời sống xã hội, đồng thời cung cấp cái nhìn hệ thống về văn xuôi giai đoạn này trong bước chuyển của


lịch sử văn học. Trên cơ sở tìm hiểu hai mảng đề tài chính (văn xuôi viết về đề tài chiến tranh và văn xuôi viết về đề tài thế sự - đời tư), tác giả luận án phát hiện, lý giải những rạn nứt, những dấu hiệu mới trong khuôn khổ đề tài cũ và những cảm hứng mới. Thông qua những kết nối, so sánh, luận án đã chỉ ra những đổi mới về nghệ thuật của văn xuôi hậu chiến - khởi đầu cho những cách tân nghệ thuật độc đáo trong văn xuôi Việt Nam sau 1986 và khẳng định vị trí của giai đoạn 1975-1985 trong quá trình chuyển đổi tư duy văn học Việt Nam sau 1975. Tuy nhiên, đối tượng nghiên cứu của luận án là văn xuôi nói chung bao gồm cả tiểu thuyết và truyện ngắn. Vì thế, đặc trưng của thể loại truyện ngắn chưa được tác giả làm rò.

Bên cạnh đó là các Luận văn thạc sĩ. Đề tài Tìm hiểu một vài thành tựu đổi mới nổi bật về văn xuôi Việt Nam từ sau 1975 qua hai tác giả: Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Khải của Lê Thị Thanh Hà [64] đã tìm hiểu văn xuôi Việt Nam từ sau năm 1975 ở phương diện đổi mới về khuynh hướng văn xuôi, đề tài, quan niệm nghệ thuật về con người, thủ pháp nghệ thuật thể hiện (đổi mới về giọng điệu và về nhân vật). Đề tài Một số vấn đề về đổi mới thi pháp thể loại trong truyện ngắn Việt Nam đương đại [203] của Trần Thanh Việt đã chỉ ra những yếu tố đổi mới, cách tân trong thời gian, không gian trần thuật, trong điểm nhìn và giọng điệu.

Trên đây là những bài viết, những công trình nghiên cứu về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975. Các công trình nghiên cứu tập trung đi sâu vào những phương diện của nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam đương đại như cách xây dựng nhân vật, giọng điệu, điểm nhìn, ngôn ngữ, kết cấu và cốt truyện, khoảnh khắc tình huống, thời gian và không gian trần thuật… Tuy nhiên, các công trình chủ yếu thiên về lí luận. Chúng tôi nhận thấy cần có công trình ứng dụng lí thuyết tự sự để nghiên cứu về nhóm tác giả cùng thế hệ từ đó nhận diện điểm chung trong cách viết của các nhà văn và điểm riêng trong phong cách của từng tác giả; điểm riêng trong phong cách sáng tác của thế hệ “mở đường” so với các thế hệ khác; nhìn ra diện mạo của giai đoạn văn học Việt Nam sau 1975. Như vậy, công việc nghiên cứu của chúng tôi thiên về tìm hiểu thực tiễn sáng tác của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng. Vì thế, những ý kiến về nghệ thuật tự sự và những dấu hiệu đổi mới của văn xuôi nói chung và truyện ngắn Việt


Nam sau 1975 nói riêng đều là những tư liệu tham khảo rất quan trọng để chúng tôi thêm nỗ lực và tự tin với đề tài nghiên cứu của mình.

1.3. Những công trình nghiên cứu về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng

1.3.1. Những công trình nghiên cứu về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu

Cuốn Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu [110] của Tôn Phương Lan đã tìm hiểu về quan niệm nghệ thuật của nhà văn và sự triển khai quan điểm ấy vào văn bản tác phẩm (từ quan điểm thẩm mĩ trong mô tả hiện thực đến việc xây dựng hình tượng nhân vật, từ việc tạo tình huống, điểm nhìn trần thuật đến ngôn ngữ, giọng điệu, văn phong). Chương 3 “Tình huống và điểm nhìn trần thuật” đã chỉ ra và xác định trần thuật khách thể và trần thuật theo ngôi thứ nhất. Tác giả cho rằng: “Điểm nhìn trần thuật liên quan chặt chẽ đến chỗ đứng của nhà văn khi quan sát và phản ánh hiện thực” [110, tr. 145]. Với lối trần thuật khách thể, giữa nhà văn và nhân vật luôn tồn tại một khoảng cách: “Nhà văn như một “lữ khách” đứng nhìn dòng đời trôi chảy và bằng sự quan sát tinh tế của mình đã phát hiện ra cái không bình thường trong cái bình thường của cuộc sống và con người” [110, tr. 148]. Với lối trần thuật theo NT1, chủ thể trần thuật được “nhân vật hóa”, “Nguyễn Minh Châu thường chọn nhân vật là nhà văn, nhà báo, những người vừa có khả năng quan sát, nhận diện con người qua hình thể, lại vừa có khả năng đi sâu vào tâm lý và suy nghĩ của đối tượng” [110, tr. 145]. Tôn Phương Lan đã phân tích và mô tả một số truyện ngắn đặc sắc của Nguyễn Minh Châu, từ đó, người viết đưa ra kết luận: “Các điểm nhìn trần thuật này, một mặt vừa tạo nên chiều sâu cho bối cảnh, cho nhân vật, mặt khác vừa góp phần quan trọng để hình thành giọng điệu” [110, tr. 159]. Tác giả cũng tìm hiểu về giọng điệu trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu trong đối sánh với văn học trước 1975: trước 1975 là giọng điệu trang trọng, ngợi ca; sau 1975 là giọng điệu trữ tình trầm lắng, đượm nhiều trắc ẩn; vào thập kỷ tám mươi, hình thành giọng điệu thâm trầm, đau đáu. Những phát hiện ấy đã chứng tỏ tác giả nhìn ra sự đổi mới, phong phú về giọng điệu trần thuật trong sáng tác Nguyễn Minh Châu.

Xem tất cả 179 trang.

Ngày đăng: 21/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí