Đánh Giá Và Khoảng Trống Nghiên Cứu

nhiệm vụ của Chính phủ là đưa ra các chính sách khác nhau cho từng nhóm công ty địa phương đó.

Về chính sách nhằm nâng cao năng lực tiếp nhận công nghệ có các nghiên cứu của các tác giả như: Intarakumnerd (2014), Techakanont (2001), Terdudomtham (2004). Các nghiên cứu chỉ ra điểm mấu chốt thành công trong công nghiệp ô tô Thái Lan là do chính sách kịp thời của chính phủ theo từng giai đoạn nhằm thu hút chuyển giao công nghệ. Các tác giả chỉ ra rằng, trong thời gian đầu, các công ty Thái Lan từng bước nỗ lực giải quyết vấn đề về hiệu quả sản xuất thấp, chất lượng sản phẩm kém, họ ít có cơ hội tìm hiểu các công nghệ mới, do đó, chính sách phù hợp theo từng giai đoạn của Chính phủ đã khuyến khích các công ty đa quốc gia chuyển giao công nghệ cho các nhà cung ứng địa phương, nhờ đó, Thái Lan từng bước tham gia vào mạng sản xuất ô tô toàn cầu.

Nghiên cứu về mối quan hệ giữa FDI, chuyển giao công nghệ và năng suất sản xuất được rất nhiều các nhà học giả trên thế giới đặc biệt quan tâm. Nghiên cứu của tác giả Ng (2006) nhấn mạnh tầm quan trọng của FDI trong quá trình phát triển của một số quốc gia. Trong nghiên cứu của mình, tác giả cũng chỉ rõ, các công ty đa quốc gia không những cung cấp cả vốn mà quan trọng hơn còn chuyển giao công nghệ cho quốc gia đang phát triển qua đó góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Ngoài ra còn có các báo cáo, nghiên cứu của Viện nghiên cứu ô tô xe máy Thái Lan cũng chỉ rõ vai trò của các công ty đa quốc gia ngoài đối với công nghiệp ô tô Thái Lan đặc biệt là các công ty từ Nhật Bản.

Ngoài ra còn có các nghiên cứu của Karibe và các cộng sự (2009). Các tác giả nghiên cứu về vai trò của các doanh nghiệp Nhật Bản đối với việc hình thành các cụm liên kết ngành ô tô ở Thái Lan. Nhờ đó Thái Lan trở thành một trong những nước sản xuất và xuất khẩu ô tô lớn nhất Châu Á. Trong nghiên cứu của Monaco và công sự (2019), tác giả đặc biệt quan tâm đến chuyển giao công nghệ trong ngành nhựa khi tham gia vào chuỗi giá trị sản xuất ô tô đặc biệt trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra với tốc độ nhanh chóng. Trong nghiên cứu của mình, tác giả cũng giải thích các nhân tố chính tạo nên thành công khi ngành nhựa tham gia

mạnh mẽ vào chuỗi giá trị như các chính sách của chính phủ, vai trò của các cụm công nghiệp, vai trò của các công ty đa quốc gia…. Kết quả nghiên cứu này thực sự hữu ích cho các nước đang phát triển muốn phát triển công nghiệp ô tô, khẳng định tầm quan trọng của việc thu hút đầu tư nước ngoài và phát triển mạng lưới nhà cung cấp trong nước cho các doanh nghiệp lắp ráp nước ngoài như là một giải pháp để nâng cao năng lực cho các doanh nghiệp trong nước, đạt được chất lượng quốc tế, và nâng cao được năng suất, hiệu quả sản xuất.

Để chứng minh vai trò quan trọng của mạng sản xuất toàn cầu, đặc biệt khi gắn liền lợi ích của quốc gia khi tham gia vào mạng sản xuất toàn cầu cũng cho thấy lợi nhuận của công ty sẽ tăng đáng kể và trình độ công nghệ thông tin sẽ phát triển vượt bậc. Các tác giả nghiên cứu sâu vấn đề trên như: Wignaraja và cộng sự (2013), Techakanont (2008), Athukorala (2011). Các tác giả đã chứng minh được tầm quan trọng của mạng sản xuất toàn cầu.

Nghiên cứu về triển vọng công nghiệp ô tô Thái Lan trong thời gian tới có các công trình nghiên cứu của Thailand Ministry of Industry (2012). Các nghiên cứu tập trung phân tích thực trạng và xu hướng của ô tô trên toàn cầu, của khu vực ASEAN và của Thái Lan qua đó phân tích những vấn đề mà công nghiệp ô tô Thái Lan đang phải đối mặt trong thời gian tới. Dựa trên những mục tiêu mà công nghiệp ô tô Thái Lan, Chính phủ Thái Lan đưa ra tầm nhìn chiến lược, khuyến nghị chính sách cho công nghiệp ô tô Thái Lan đến năm 2025.

Nghiên cứu về công nghiệp phụ tùng ô tô có tác giả Yongpisanphob (2020), nghiên cứu cũng phân tích công nghiệp phụ tùng ô tô Thái Lan trong bối cảnh đại dịch COVID-19. Đại dịch COVID-19, sẽ làm cho sản lượng sản xuất xe giảm nặng nề, tuy nhiên, linh phụ kiện ô tô ít bị ảnh hưởng hơn. Trong giai đoạn tới, xe điện sẽ ngày càng đóng vai trò quan trọng trong công nghiệp ô tô Thái Lan, do đó, song song với sản xuất linh kiện phụ kiện ô tô chạy bằng nhiên liệu xăng hoặc dầu, thì Thái Lan sẽ có xu hướng đầu tư mạnh hơn trong lĩnh vực linh kiện phụ kiện cho xe điện, đặc biệt là pin.

Nghiên cứu về cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và xu hướng chuyển đổi sang ô tô điện trong công nghiệp ô tô có tác giả Chollacoop (2020). Với xu hướng phát triển xe ô tô điện trên thế giới, Thái Lan cũng không nằm ngoài xu hướng đó, nghiên cứu cũng đánh giá mức độ sẵn sàng và đáp ứng xu hướng chuyển đổi này của các hãng ô tô và các doanh nhhiệp nội địa

1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 202 trang tài liệu này.

Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, công nghiệp ô tô luôn là trọng tâm của các chính sách ưu đãi của Chính phủ. Cho đến nay, một số công trình trình bày về các nội dung liên quan đến kinh nghiệm và các vấn đề mạng sản xuất ô tô toàn cầu do nhóm các tác giả của Việt Nam như:

Nghiên cứu về lý luận về hội nhập kinh tế quốc tế, mạng sản xuất cũng như đánh giá định lượng những đóng góp của mạng sản xuất khu vực đến tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế có tác giả Bùi Thái Quyên (2014) và Nguyễn Bình Giang (chủ biên, 2015). Nghiên cứu đã đưa ra khung chính sách tham gia mạng sản xuất quốc tế nhằm mục đích thay đổi cơ cấu ngành theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ kinh nghiệm gia nhập và phát triển trong mạng sản xuất toàn cầu và mạng sản xuất khu vực của ba ngành điển hình trong ba nước trong khu vực, tác giả cũng rút ra bài học kinh nghiệm: (1) xây dựng chiến lược phải phù hợp từng giai đoạn, thời kỳ của đất nước; (2) Vai trò của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là rất quan trọng và Chính phủ nên có chính sách thu hút phù hợp; (3) Không thể thiếu các ngành công nghiệp hỗ trợ cho các ngành công nghiệp chính; (4) Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò quan trọng trọng quá trình phát triển công nghiệp mũi nhọn; (5) Chính phủ phải có cam kết về chính sách hỗ trợ và thị trường tiêu thụ sản phẩm.

Sự tham gia của Thái Lan vào mạng sản xuất ô tô toàn cầu và hàm ý chính sách cho Việt Nam - 4

Liên quan đến nghiên cứu về mạng sản xuất toàn cầu và vai trò của các công ty đa quốc gia, trong công trình nghiên cứu của mình tác giả Lê Thị Ái Lâm (2012) đã cung cấp hệ thống cơ sở lý thuyết về mạng sản xuất toàn cầu, các hoạt động xuyên biên giới của các công ty toàn cầu và các đối tác chiến lược của họ. Tác giả nhấn mạnh việc tham gia vào các mạng sản xuất toàn cầu là con đường nhanh và hiệu quả đi tới thịnh vượng của các doanh nghiệp cũng như quốc gia.

Nghiên cứu về cụm liên kết ngành đối với việc hình thành mạng sản xuất, chuỗi giá trị tại Việt Nam có các tác giả như Nguyễn Đình Tài (2013), Trương Thị Chí Bình (2011), Nguyễn Văn Thanh (2007). Các tác giả đánh giá vai trò quan trọng của cụm liên kết ngành và coi đó như là một công cụ chính sách quan trọng, bởi sự lớn mạnh của một cụm liên kết ngành thường kéo theo sự gia tăng và phát triển các ngành hỗ trợ và là điều kiện tiền đề để Việt Nam có thể từng bước tham gia vào mạng sản xuất toàn cầu.

Nghiên cứu về thực trạng công nghiệp ô tô Việt Nam trong mạng sản xuất khu vực để có một cái nhìn tổng thể về công nghiệp ô tô Việt Nam và khả năng tham gia mạng sản xuất ô tô toàn cầu Việt Nam nhằm có thể đưa ra những khuyến nghị chính sách đối với Chính phủ để công nghiệp ô tô Việt Nam có thể bước sang một trang mới có các nghiên cứu của Cù Chí Lợi (chủ biên, 2011), Nguyễn Hiền Thu (2012). Cùng với các xu hướng hội nhập khu vực và quốc tế, Việt Nam có nhiều thuận lợi khi tham gia mạng sản xuất toàn cầu. Tuy nhiên xét về các yếu tố nội lực như công nghệ, nhân công và môi trường kinh doanh so với các nước Đông Á thì Việt Nam đứng gần cuối cùng. Trong ba yếu tố trên, Việt Nam chỉ có ưu thế về nhân công rẻ còn công nghệ và môi trường kinh doanh của Việt Nam khó mà cạnh tranh với các nước trong khu vực. Câu hỏi đặt ra là, liệu với vị thế công nghiệp ô tô Việt Nam so với khu vực như thế thì Việt Nam có thể tham gia mạng sản xuất toàn cầu hay không?

Nghiên cứu về chiến lược và chính sách phát triển cho công nghiệp ô tô Việt Nam trong bối cảnh gia nhập WTO có tác giả Lê Hữu Phúc (2005). Nghiên cứu bài học từ kinh nghiệm của các nước ASEAN được chọn (Thái Lan, Malaysia và Indonesia) và Trung Quốc và Hàn Quốc, tác giả đưa ra bức tranh tổng thể công nghiệp ô tô Việt Nam trong bối cảnh gia nhập WTO. Tác giả cho rằng, trong ngắn hạn, tận dụng tốt nhất các nhà đầu tư nước ngoài hiện có và các các công ty đầu tư nên được ưu tiên hàng đầu. Thu hút FDI mới và thúc đẩy các nhà sản xuất hiện tại đều quan trọng như nhau, và cùng nhau bổ sung cho việc phát triển của công nghiệp ô tô và các ngành công nghệ cao khác.

Phân tích nguyên nhân thất bại của công nghiệp ô tô Việt Nam có các nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Trị (2010), Kenichi Ohno và Vũ Duy Cường (2006). Các công trình này đã nghiên cứu những việc cần làm để triển khai thực hiện quy hoạch công nghiệp ô tô. Từ các mục tiêu trở đưa công nghiệp ô tô trở thành ngành công nghiệp mũi nhọn vào năm 2020 thì cách thức đạt được mục tiêu là các định hướng đầu tư và các yêu cầu đối với các dự án đầu tư, khoanh vùng mà chính phủ khuyến khích đầu tư ngành này, chuẩn bị tài chính và cuối cùng là khâu triển khai thực hiện quy hoạch. Tuy nhiên, công nghiệp ô tô Việt Nam vẫn chưa thành công bởi một số nguyên nhân. Thứ nhất, Việt Nam chưa định vị được công nghiệp ô tô trong mạng lưới sản xuất khu vực và toàn cầu; ví dụ như: Thái Lan mục tiêu là “Detroit của Châu Á”, Malaysia cố gắng là “nhà thiết kế xe của ASEAN”. Thứ hai, chính sách hỗ trợ đầy đủ nhưng chưa cụ thể. Thứ ba, phối hợp giữa các bên liên quan còn lỏng lẻo.

Ảnh hưởng của chính sách đến phát triển công nghiệp ô tô của Việt Nam cũng được nhiều học giả quan tâm như: Nhâm Phong Tuân và Trần Đức Hiệp (2014); Lê Xuân Sang và Nguyễn Thị Thu Huyền (2011); Lê Xuân Sang (2011); Phan Thế Công và Hồ Thị Mai Sương (2011); Trương Thị Chí Bình (2011). Tác giả phân tích sự ảnh hưởng của các chính sách đến phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ ô tô Việt Nam trong những năm qua như chính sách thu hút đầu tư nước ngoài, chính sách phát triển doanh nghiệp mới, chính sách phát triển khu, cụm công nghiệp, chính sách ưu đãi về thuế. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, công nghiệp hỗ trợ ô tô Việt Nam đã có những bước phát triển đáng ghi nhận, tuy nhiên chưa xứng với tiềm năng phát triển của công nghiệp ô tô Việt Nam.

Nghiên cứu về các chính sách thu hút đầu tư trực tiếp từ Nhật Bản trong công nghiệp ô tô Việt Nam và thực tiễn tham gia của các doanh nghiệp nội địa vào mạng sản xuất tạo ô tô Đông Á có tác giả Trần Thị Ngọc Quyên (2012). Nghiên cứu của tác giả đưa ra hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn về mối quan hệ giữ thu hút FDI và quá trình tham gia của nước nhận đầu tư, đặc biệt vai trò của nguồn vốn này đối với doanh nghiệp nội địa khi tham gia vào mạng sản xuất Đông Á. Các chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài từ Nhật Bản vào Việt Nam trong công nghiệp ô tô và

quá trình tham gia của các doanh nghiệp nội địa vào mạng sản xuất Đông Á. Trên cơ sở đó, tác giả cũng đưa ra các giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp Nhật Bản nhằm tăng cường sự tham gia của doanh nghiệp nội.

Ngoài ra còn có nghiên cứu của Nguyễn Bích Thủy (2008), Phan Tuấn và Nguyễn Thị Vân Anh (2008) về chính sách phát triển công nghiệp ô tô Việt Nam. Nghiên cứu của các tác giả này cung cấp các số liệu điều tra thực tế về thực trạng nội địa hóa của các hãng xe tại Việt Nam. Nghiên cứu đưa ra kết luận: Chính sách của chính phủ, thị trường và công nghiệp hỗ trợ là ba yếu tố quyết định tới thành công của chính sách nội địa hóa. Do vậy, chỉ khi tác động vào ba yếu tố này mới phá vỡ được sự yếu kém trong công nghiệp ô tô Việt Nam. Nhờ đó, công nghiệp ô tô Việt Nam mới có thể tham gia vào mạng sản xuất ô tô toàn cầu.

Nguyễn Thị Xuân Thúy và Nguyễn Thị Hoài Dung (2016) nghiên cứu về giải pháp hỗ trợ công nghiệp ô tô Việt Nam nâng cao giá trị tạo ra trong nước và tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Tác giả đã phân tích cơ hội và thách thức đối với công nghiệp ô tô Việt Nam trong thời gian tới và xu hướng phát triển công nghiệp ô tô thế giới và sự điều chỉnh chuỗi cung ứng của các nhà sản xuất mở ra cơ hội cho các nước đi sau tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu về công nghiệp ô tô. Để tạo cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam tham gia chuỗi giá trị khu vực, nghiên cứu đã đề xuất ba nhóm giải pháp mà Việt Nam cần tập trung thực hiện trong thời gian tới, đó là tạo dựng thị trường, duy trì và hỗ trợ hoạt động sản xuất lắp ráp trong nước, và phát triển công nghiệp hỗ trợ, tăng cường kết nối doanh nghiệp trong nước để hình thành chuỗi cung ứng ô tô trong nước với sự tham gia nhiều hơn của các doanh nghiệp ở mọi cấp tuỳ vào năng lực và trình độ của doanh nghiệp.

Các nghiên cứu của Trần Thị Phương Dịu (2017), Vũ Chí Hùng (2018), Lê Thị Khánh Ly (2019) khi đề xuất giải pháp cho phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam bao gồm cả công nghiệp hỗ trợ cho chế tạo ô tô cũng nêu giải pháp về tham gia mạng sản xuất toàn cầu, song đều không đề cập cụ thể cách thức tham gia.

Tổng quan các nghiên cứu trên đây cho thấy công nghiệp ô tô và mạng sản xuất ô tô toàn cầu là chủ đề thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Bởi công

nghiệp ô tô có cấu trúc phức tạp nên việc nghiên cứu mạng sản xuất chủ yếu sử dụng phương pháp định tính, xem xét mối quan hệ giữa nhà lắp ráp và nhà cung cấp. Phương pháp định lượng được tổng quan trong bài này chủ yếu tập trung vào việc kiểm định giả định của tác giả về vị trí của doanh nghiệp trong mạng sản xuất có ảnh hưởng thế nào đến hoạt động phát triển sản phẩm, chứ không phải là đo lường giá trị tạo ra trong từng công đoạn của mạng sản xuất.

1.3. Đánh giá và khoảng trống nghiên cứu

1.3.1. Đánh giá về các nghiên cứu đã có

(i) Về nguồn tài liệu trong nước cho đến nay các lý thuyết liên quan đến mạng sản xuất toàn cầu được đề cập đến trong một vài nghiên cứu tuy nhiên lý thuyết liên quan đến mạng sản xuất toàn cầu công nghiệp ô tô vẫn chưa được hệ thống một cách khoa học. Các nghiên cứu ở Việt Nam chỉ dừng lại nghiên cứu về mạng sản xuất và mạng sản xuất toàn cầu cho các ngành công nghiệp nói chung.

(ii) Về nguồn tài liệu nước ngoài cho thấy các công trình công bố của các tác giả nước ngoài cũng đã khái niệm hóa được các lý thuyết về mạng sản xuất toàn cầu và mạng sản xuất toàn cầu công nghiệp ô tô. Quan trọng hơn là với các công trình công bố đó, các nhân tố tác động, thúc đẩy tham gia mạng sản xuất ô tô toàn cầu đã được liệt kê một cách khá chi tiết, đã bù lấp được vào các tài liệu nghiên cứu trong nước chưa có.

1.3.2. Khoảng trống nghiên cứu


Thứ nhất, các công trình nghiên cứu trong nước thiếu vắng các chủ đề nghiên cứu sâu về sự tham gia mạng sản xuất toàn cầu của các ngành công nghiệp riêng biệt, đặc biệt là các công trình nghiên cứu về cách thức tham gia vào mạng sản xuất toàn cầu. Các công trình trong nước đa phần đều bàn nhiều về chuỗi giá trị, cách thức tham gia vào chuỗi giá trị, ví dụ như chuỗi giá trị của công nghiệp điện tử và dệt may. Các công trình có bàn về chủ đề ô tô thì đa phần chỉ dừng lại ở nghiên cứu, đánh giá thực trạng công nghiệp ô tô trong bối cảnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước mà chưa đưa ra được nhiều khuyến nghị gắn với thực tiễn nhằm thúc đẩy sự tham gia vào mạng sản xuất ô tô toàn cầu.

Thứ hai, đối với tài liệu nước ngoài, có nhiều nghiên cứu về công nghiệp ô tô ở Thái Lan, trong đó có nhiều công trình cũng chỉ ra được những nhân tố thành công trong phát triển công nghiệp ô tô ở Thái Lan đó là nhờ vào sự thu hút thành công các dự án FDI từ các công ty xuyên quốc gia, từ các chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ, các cụm liên kết công nghiệp ô tô của Thái Lan. Tuy nhiên, đối với trường hợp Thái Lan những công trình nghiên cứu đến cách thức Thái Lan tham gia vào mạng sản xuất ô tô toàn cầu cũng còn rất ít.

1.4. Tiểu kết Chương 1

Nhìn chung, các nghiên cứu, đề tài, luận án có liên quan đến mạng sản xuất ô tô toàn cầu đã hệ thống được một số vấn đề cả lý luận và thực tiễn về mạng sản xuất toàn cầu, đã thống nhất được các khái niệm, vai trò công nghiệp ô tô đối với phát triển kinh tế của các nước đang phát triển, cũng như các quan điểm, chiến lược phát triển công nghiệp ô tô của Thái Lan cũng như Việt Nam. Tuy nhiên các nghiên cứu trên chưa rút ra được bài học kinh nghiệm về phát triển ngành công nghiệp nghiệp ô tô bằng cách tham gia mạng sản xuất toàn cầu và chưa chỉ ra được nhiều kinh nghiệm nào có thể áp dụng cho Việt Nam.

Từ khoảng trống nghiên cứu nêu trên, luận án này chọn hướng nghiên cứu là trả lời câu hỏi nghiên cứu "Thái Lan đã và đang làm thế nào để tham gia ngày càng tích cực vào mạng sản xuất toàn cầu, nhờ đó phát triển được công nghiệp ô tô của mình và Việt Nam có thể học được gì từ kinh nghiệm thực tiễn của Thái Lan".

Nghiên cứu cách Thái Lan phát triển (nâng cấp) công nghiệp ô tô bằng cách tham gia các mạng sản xuất ô tô toàn cầu là một cách tiếp cận mới mà Luận án này đóng góp. Cách tiếp cận này cho thấy một bức tranh đầy đủ hơn về cách Thái Lan phát triển thành công công nghiệp ô tô của họ. Và do đó, dựa trên kinh nghiệm thực tiễn của Thái Lan, Luận án này có thể đưa ra những hàm ý về một hệ thống chính sách đồng bộ để phát triển công nghiệp ô tô của Việt Nam.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 23/02/2023