Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỬ DỤNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN ĐÁP ỨNG YÊU CẦU ĐỔI MỚI GIÁO DỤC Ở CÁC TRƯỜNG THPT TƯ THỤC
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Nghiên cứu ở nước ngoài
Vấn đề bồi dưỡng, phát triển và sử dụng đội ngũ GV là một vấn đề cơ bản trong GD, được các quốc gia trên thế giới rất coi trọng. Vì vậy, việc tạo mọi điều kiện cho đội ngũ cán bộ, GV có cơ hội học tập, học tập thường xuyên, học tập suốt đời để kịp thời bổ sung kiến thức và đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm đáp ứng và phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội luôn được coi là phương châm hành động của các cấp quản lý GD ở mọi quốc gia.
Hội nghị Unesco tổ chức tại Nê-pan vào năm 1998 về tổ chức quản lý nhà trường đã khẳng định: Xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ GV là vấn đề cơ bản trong phát triển GD. Tại Nhật Bản, việc bồi dưỡng và đạo tạo lại cho đội ngũ GV, CBQL GD là nhiệm vụ bắt buộc đối với người lao động sư phạm. Tại Thái Lan, từ năm 1998 việc bồi dưỡng GV được tiến hành ở các trung tâm học tập cộng đồng nhằm thực hiện GD cơ bản, huấn luyện kỹ năng nghề nghiệp và thông tin tư vấn cho mọi người dân trong xã hội. Các trường sư phạm ở Úc, New Zeland, Canada… hầu hết đều thành lập các cơ sở chuyên bồi dưỡng GV nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho GV tham gia học tập để không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Tại Liên Xô (cũ) các nhà nghiên cứu quản lý GD như: M.I.Kônđacốp, P.V.Khuđominxki… đã rất quan tâm tới việc nâng cao chất lượng dạy học thông qua các biện pháp quản lý có hiệu quả. Muốn nâng cao chất lượng dạy học phải có đội ngũ GV có năng lực chuyên môn. Họ cho rằng kết quả toàn bộ hoạt động của nhà trường phụ thuộc rất nhiều việc sử dụng hiệu quả đội ngũ GV.
Quản lý nhân sự là một vấn đề có tầm quan trọng rất lớn đối với sự tồn tại và phát triển của một cơ quan, đơn vị. Quan điểm về nhân sự của các nhà quản lý sẽ tác động trực tiếp lên các quyết định nhân sự như: Nên tuyển dụng ai? Phân công nhiệm vụ như thế nào và sử dụng người nào cho phù hợp, hiệu quả với từng công việc? Mặt khác, quan điểm về con người của các nhà quản lý sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến bầu không khí tâm lý của tập thể, đến hiệu quả làm việc của mỗi cá nhân và của cả đơn vị. Nghiên cứu quản lý nhân sự trong nhà trường giúp các nhà quản lý biết cách giao tiếp một cách có hiệu quả với người khác, thấu hiểu và nắm bắt được chính xác năng lực, phẩm chất, tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của đội ngũ mình quản lý, từ đó có những đánh giá chính xác về đội ngũ và những chỉ đạo đúng đắn để nâng cao chất lượng công việc, nâng cao hiệu quả trong hoạt động của nhà trường.
1.1.2. Nghiên cứu ở trong nước
Ngay từ những ngày đầu thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Đảng và Nhà nước đã rất quan tâm đến phát triển sự nghiệp GD và phát triển đội ngũ nhà giáo. Trong tác phẩm “Về vấn đề cán bộ” [47] Bác Hồ đã đề cập đến xây dựng và phát triển đội ngũ Nhà giáo Việt Nam một cách toàn diện từ quan điểm, đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ. Bác Hồ đã dạy: Mọi việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém. Nghị quyết Hội nghị trung ương 3 khóa VIII tiếp tục khẳng định: “… Cán bộ là nhân tố quyết định thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong xây dựng Đảng” [22]. Trong Đại hội Đảng IX, Đảng ta xác định: “Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”, cho nên việc nghiên cứu về công tác quản lý con người, quản lý nhân sự là rất cần thiết đối với các CBQL nói chung, CBQL GD nói riêng.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, sự bùng nổ của CNTT, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và kinh tế tri thức, đòi hỏi GD và đào tạo phải thực sự là “quốc sách hàng đầu”. Do đó, phải coi GD và đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn dân. Phát triển GD và đào tạo phải gắn với phát triển kinh tế - xã hội và là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy CNH - HĐH, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người mới, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Vì vậy, Đảng và Nhà nước đã đề ra nhiều chủ trương và chính sách cụ thể để phát triển đội ngũ nhà giáo, những chủ trương đó là: “Chiến lược phát triển GD Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010” nêu rõ phát triển đội ngũ nhà giáo đảm bảo đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu và chuẩn về chất lượng; nâng tỷ lệ GV THPT có trình độ Thạc sỹ lên 10%; chú trọng đầu tư cho việc xây dựng đội ngũ GV cho các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, cho đồng bào các dân tộc thiểu số [15]. Chỉ thị số 40 - CT/TW ngày 15/6/2004 của Ban Bí thư đã nêu rõ những tồn tại, hạn chế, bất cập của đội ngũ nhà giáo và CBQL GD, đề ra mục tiêu “Xây dựng đội ngũ nhà giáo và CBQL GD được chuẩn hóa, đảm bảo chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống, lương tâm, tay nghề của nhà giáo...” [1]; Quyết định số 09/QĐ- TTg ngày 11/01/2005 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Xây dựng, nâng cao chất lượng nhà giáo và CBQL GD giai đoạn 2006 - 2010” nêu rõ mục tiêu, giải pháp để xây dựng, phát triển đội ngũ nhà giáo và CBQL GD đến năm 2010 [17]. Dự thảo lần thứ 14 “Chiến lược phát triển GD Việt Nam 2009 - 2020” nêu rõ giải pháp phát triển đội ngũ nhà giáo và CBQL GD đủ số lượng, đồng bộ và chuẩn hóa, vững vàng về kiến thức khoa học cơ bản và kỹ năng sư phạm [9]. Nghị quyết 05/2005/NQ-CP của Chính phủ về đẩy mạnh công tác xã hội hóa lính vực GD, y tế, văn hóa, thể dục thể thao đã chỉ đạo: “chuyển phần lớn hoạt động GD sang cơ chế cung ứng dịch vụ” [16]. Sự chuyển đổi này đã đặt ra yêu cầu mới cho nhà trường: muốn phát triển và cạnh tranh có hiệu quả, buộc phải cải thiện tổ chức, trong đó yếu tố con người là quyết định. Việc tìm đúng người phù hợp để
Có thể bạn quan tâm!
- Sử dụng đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục ở các trường THPT tư thục thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh - 1
- Sử dụng đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục ở các trường THPT tư thục thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh - 2
- Mô Hình Phát Triển Nguồn Nhân Lực Theo Leonard Nadle
- Yêu Cầu Đặt Ra Đối Với Sử Dụng Đội Ngũ Giáo Viên
- Khái Quát Về Điều Kiện Tự Nhiên, Kinh Tế - Xã Hội Và Giáo Dục Của Thành Phố Hạ Long, Tỉnh Quảng Ninh
Xem toàn bộ 126 trang tài liệu này.
giao đúng việc nhằm khai thác tốt tiềm năng của họ và đem lại hiệu quả cao cho đơn vị sẽ tạo lợi thế cạnh tranh cho mỗi cơ sở GD trong điều kiện đa dạng hóa các loại trường.
Trong những năm gần đây, nhiều luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ đã nghiên cứu các vấn đề về đội ngũ giáo viên ở các khía cạnh khác nhau, đi sâu nghiên cứu giải quyết các vấn đề vướng mắc trong thực tiễn công tác quản lý, xây dựng, quy hoạch, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên ở các địa phương, các cấp học khác nhau. Đặc biệt là vấn đề sử dụng đội ngũ giáo viên cũng đã được một vài luận văn đề cập đến. Ví dục như: “Sử dụng đội ngũ giáo viên cốt cán trong phát triển nghề nghiệp giáo viên THCS huyệ Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh” năm 2012 của tác giả Nguyễn Văn Ty; “Sử dụng đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu cầu phát triển trung tâm giáo dục thường xuyên huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên trong giai đoạn mới” năm 2017 của tác giả Đỗ Thị Thủy;
Hệ thống các trường ngoài công lập đã được hình thành và phát triển từ rất sớm ở nước ta cũng như trên thế giới. Các trường này đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển nền GD ở mỗi quốc gia. Để duy trì sự phát triển của các trường ngoài công lập một cách vững chắc cần phải không ngừng nâng cao chất lượng chuyên môn, và xây dựng đội ngũ GV có tay nghề giỏi, sử dụng đội ngũ GV một cách khoa học, hợp lý. Đã có một số công trình nghiên cứu về các trường ngoài công lập như: luận văn “Các giải pháp cải tiến cơ chế quản lý trường THPT dân lập TP Hải Phòng” của tác giả Nguyễn Thị Mai năm 2000; luận văn “Một số biện pháp quản lý chuyên môn của hiệu trưởng trường THPT bán công TP Hà Nội” của tác giả Đỗ Thị Dung năm 2004; luận văn “Biện pháp quản lý đội ngũ GV trường THPT ngoài công lập trên địa bàn TP Nam Định” của tác giả Tô Thị Thơm năm 2011; luận văn “Các biện pháp tăng cường quản lý đội ngũ GV trường THPT ngoài công lập trên địa bàn TP Hà Nội” của tác giả Trần Thị Thanh Hà; công trình nghiên cứu “Về công tác quản lý các trường THPT Tư thục trên địa bàn TP Hồ Chí Minh” đăng trên Tạp chí Khoa học - ĐH Đồng Nai, số 03 - 2016 của tác giả Lê Văn Khoa.
Các công trình nghiên cứu trên thực sự là những công trình có giá trị và đã đóng góp không nhỏ trong việc đề ra các giải pháp, biện pháp quản lý và phát triển trường THPT ngoài công lập. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn còn ít những công trình nghiên cứu về quản lý, sử dụng đội ngũ GV ở các trường THPT ngoài công lập, đặc biệt là các trường THPT tư thục cho hiệu quả. Bởi vậy giải pháp sử dụng đội ngũ GV ở các trường THPT Tư thục đáp ứng yêu cầu đổi mới GD hiện nay là một vấn đề có tính mới, có tính thực tiễn trong hoạt động quản lý nhà trường.
Quảng Ninh đã có một số nghiên cứu về quản lý, phát triển đội ngũ GV THPT. Tuy nhiên, vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào đề cập đến giải pháp sử dụng đội ngũ GV đáp ứng yêu cầu đổi mới GD ở các trường THPT tư thục một cách đầy đủ và hệ thống.
Với luận văn này, tác giả là người đầu tiên nghiên cứu về vấn đề sử dụng đội ngũ GV đáp ứng yêu cầu đổi mới GD ở các trường THPT tư thục tại Quảng Ninh. Đề tài nhằm mục đích đánh giá đúng thực trạng sử dụng đội ngũ GV ở các trường THPT Tư thục, từ đó đề xuất các giải pháp sử dụng đội ngũ GV đáp ứng yêu cầu đổi mới GD ở các trường THPT tư thục TP Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh trong giai đoạn hiện nay.
1.2. Đội ngũ giáo viên Trung học phổ thông tư thục
1.2.1. Trường Trung học phổ thông tư thục trong hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam
Theo Đại từ điển Tiếng Việt: “Phổ thông là thông thường, không phải chuyên sâu, hợp với số đông” [59, tr.1341]. Như vậy, có thể hiểu, các trường phổ thông trang bị những kiến thức cơ bản cho tất cả HS, tức là các trường trang bị cho HS những kiến thức, kỹ năng cơ bản, cần thiết, sát thực để HS có thể áp dụng trong cuộc sống, thích nghi và hòa nhập với xã hội. Đây là cơ sở của sự nghiệp GD - ĐT.
Hệ thống trường phổ thông ở nước ta hiện nay bao gồm các trường tiểu học, THCS và THPT.
Để đưa ra khái niệm trường THPT Tư thục cần làm rõ các khái niệm “công lập”, “dân lập”, “tư thục”.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt: “công lập” là do Nhà nước lập ra [59, tr.5546]; “dân lập” là do Nhân dân lập ra, tự trang trải và đài thọ các khoản chi phí [59, tr.5519]; “tư thục” là trường tư, của tư nhân [59, tr.1757].
Như vậy, các trường THPT công lập do Nhà nước lập ra, mọi hoạt động của nhà trường từ ngân sách Nhà nước, GV, nhân viên của nhà trường và cán bộ, công chức nhà nước, hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Mọi hoạt động của trường theo quy định của Nhà nước và chính quyền tỉnh; chịu sự chỉ đạo, kiểm tra, giám sát của các cơ quan chức năng nhà nước, trước hết là của chính quyền tỉnh…
Đối với các trường THPT dân lập và tư thục, các hoạt động GD của nhà trường phải theo Luật GD và quy định của chính quyền tỉnh; các hoạt động khác phải theo pháp luật và sự chỉ đạo, kiểm tra của chính quyền tỉnh. Tuy nhiên, kinh phí cho các hoạt động của nhà trường và chi trả lương, bảo hiểm xã hội, y tế của GV, người lao động trong nhà trường do nhân dân hoặc cá nhân đảm nhiệm, nhưng cũng phải tuân thủ pháp luật, quy định của Nhà nước, nhất là về đóng góp của gia đình HS.
Theo Thông tư số 13 /2011/TT-BGD ĐT ngày 28 tháng 3 năm 2011 của Bộ trưởng BGD ĐT về “Quy chế tổ chức và hoạt động của trường tiểu học, trường THCS, trường THPT và trường phổ thông có nhiều cấp học loại hình tư thục” [11]:
Trường phổ thông tư thục là cơ sở GD phổ thông thuộc hệ thống GD quốc dân, do tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế hoặc cá nhân tự đảm bảo kinh phí đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và hoạt động bằng vốn ngoài ngân sách Nhà nước; được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép thành lập và hoạt động GD.
Trường phổ thông tư thục có tư cách pháp nhân, có con dấu và được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước hoặc Ngân hàng thương mại.
Trường phổ thông tư thục chịu sự quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân các cấp theo quy định của Luật GD và các quy định có liên quan khác; chịu sự quản lý trực tiếp của phòng GD và đào tạo đối với trường tiểu học, trường THCS và trường phổ thông có nhiều cấp học có cấp học cao nhất là THCS, của sở GD và đào tạo đối với trường THPT và trường phổ thông có nhiều cấp học có cấp học cao nhất là THPT.
Về nhiệm vụ và quyền hạn:
Trường phổ thông tư thục có nhiệm vụ và quyền hạn như trường công lập theo quy định tại Điều lệ trường tiểu học; Điều lệ trường THCS, trường THPT và trường phổ thông có nhiều cấp học; Quy chế về tổ chức và hoạt động của trung tâm kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp tương ứng đối với mỗi cấp học (sau đây gọi tắt là Điều lệ trường phổ thông) trong việc thực hiện mục tiêu, nội dung, chương trình, phương pháp GD và các quy định liên quan đến giảng dạy, học tập, thi, kiểm tra, công nhận tốt nghiệp, cấp văn bằng, chứng chỉ và các quy định tại Quy chế này.
Trường phổ thông tư thục tự chủ và tự chịu trách nhiệm về thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển, tổ chức các hoạt động GD, xây dựng và phát triển đội ngũ GV, huy động, sử dụng và quản lý các nguồn lực để thực hiện mục tiêu GD phổ thông.
Trường phổ thông tư thục có trách nhiệm báo cáo định kỳ và đột xuất theo quy định và yêu cầu của các cơ quan quản lý.
Trường phổ thông tư thục thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
Qua đó có thể thấy, trường phổ thông tư thục là cơ sở GD phổ thông thuộc hệ thống GD Việt Nam, vừa có những đặc điểm về cơ cấu tổ chức, thực hiện các chức năng, nhiệm vụ giống trường phổ thông công lập, đồng thời mang những đặc thù riêng biệt mà trường công lập không có: phải tự chủ và tự chịu trách nhiệm về thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển, tổ chức các hoạt động GD, xây dựng và phát triển đội ngũ GV, huy động, sử dụng và quản lý các nguồn lực để thực hiện mục tiêu GD phổ thông.
Từ phân tích trên, có thể hiểu: các trường THPT Tư thục ở nước ta hiện nay là một bộ phận rất quan trọng của hệ thống các trường phổ thông, do Tư nhân thành lập và bảo đảm các điều kiện hoạt động, hoạt động theo quy định của Pháp luật, chịu sự quản lý nhà nước của chính quyền Tỉnh và sự quản lí chuyên môn của Sở GD và đào tạo, là các trường ở bậc cuối cùng của GD phổ thông, trang bị cho HS những kiến thức, kỹ năng cơ bản sau khi HS hoàn thành chương trình GD ở các trường tiểu học, THCS, để HS có thể hoạt động trong thực tiễn đạt kết quả hoặc tiếp tục học tập chuyên sâu ở bậc học cao hơn (ĐH hoặc CĐ) đạt kết quả cao, đạo đức tốt, chuyên môn sâu phục vụ có hiệu quả sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.2.2. Khái niệm về đội ngũ giáo viên Trung học phổ thông Tư thục
1.2.2.1. Khái niệm về đội ngũ giáo viên
Đội ngũ là khối đông người được tập hợp và tổ chức thành lực lượng.
Theo luật GD, chương IV nói về “Nhà giáo”: “Nhà giáo là người làm nhiệm vụ giảng dạy, GD trong nhà trường hoặc các cơ sở GD khác”. “Nhà giáo dạy ở cơ sở GD mầm non, GD phổ thông, GD nghề nghiệp gọi là GV” [53].
Như vậy, GV là lực lượng chủ yếu tham gia vào hoạt động giảng dạy - GD HS, là người có vai trò quyết định trực tiếp đến quy mô, chất lượng và hiệu quả đào tạo của nhà trường. Thông qua các hoạt động giảng dạy, GD, ngoại khóa…đội ngũ GV đã, đang và sẽ là người thực hiện mục tiêu GD: Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH - HĐH đất nước. Họ cùng làm theo một kế hoạch thống nhất và gắn bó với nhau thông qua lợi ích về vật chất và tinh thần, trong khuôn khổ quy định của pháp luật, nội quy, quy định của đơn vị, của ngành.
Từ đó có thể hiểu: Đội ngũ GV là một tập hợp những người làm nghề dạy học - GD, được tổ chức thành một lực lượng (có tổ chức), cùng chung một nhiệm vụ, có đầy đủ các tiêu chuẩn của một nhà giáo, cùng thực hiện các nhiệm vụ và được hưởng các quyền lợi theo Luật GD và các luật khác được nhà nước quy định. Đội ngũ GV là lực lượng quyết định nhất đối với chất lượng GD và đào tạo của mỗi nhà trường.
1.2.2.2. Khái niệm về đội ngũ giáo viên THPT Tư thục
Đội ngũ GV THPT Tư thục là một tập hợp những người làm nghề dạy học - GD trong các trường THPT Tư thục, được tổ chức thành một lực lượng (có tổ chức), cùng chung một nhiệm vụ, có đầy đủ các tiêu chuẩn của một nhà giáo, ngoài phải thực hiện các nhiệm vụ và được hưởng các quyền lợi theo Luật GD và các luật khác được nhà nước quy định thì còn phải tuân theo các quy định, nhiệm vụ và hưởng các quyền lợi theo đặc thù của các nhà trường Tư thục.
1.2.3. Đặc điểm của đội ngũ giáo viên THPT Tư thục
1.2.3.1. Đặc điểm của giáo viên THPT Tư thục
GV THPT Tư thục mang những đặc điểm chung về lao động sư phạm của người thầy giáo:
Sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ đã làm thay đổi nhanh chóng bộ mặt của các nhà trường truyền thống. Nhà trường không còn là nơi duy nhất đem đến cho HS tri thức mới. Song không phải vì thế mà vai trò của người thầy giáo bị xem nhẹ đi, ở cương vị mới này, thầy giáo trở thành nhà trọng tài, nhà tổ chức, điều khiển và hướng dẫn các hoạt động sư phạm diễn ra trong nhà trường. Hơn nữa GV còn có khả năng tạo ra sự dịch chuyển các định hướng giá trị, hình thành và phát triển các cảm xúc, hành vi, thái độ tương ứng của HS. GV phải là người luôn có trong mình nhu cầu và tiềm năng không ngừng tự hoàn thiện bản thân mình về các mặt đạo đức, nhân cách, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ và những phẩm chất ý chí, tình cảm tốt đẹp khác.
Đặc điểm lao động của người thầy giáo thể hiện rõ nét thông qua con đường “thân giáo”. Thầy giáo phải như tấm gương sáng tác động trực tiếp đến HS, vì vậy nhân cách của người thầy là một trong những nhân tố đảm bảo và quyết định chất lượng GD: “trong việc GD, tất cả đều phải dựa vào nhân cách của người GV, vì sức mạnh của GD chỉ bắt nguồn từ nhân cách của con người” (Usinxki). Trong nhà trường, người thầy giáo giữ vai trò rất quan trọng bởi vì họ là người được xã hội tin tưởng giao cho trách nhiệm GD thế hệ trẻ - nguồn nhân lực tương lai của đất nước. Lao động của người thầy giáo không phải là lao động sản xuất trực tiếp mà là lao động tái tạo ra sức lao động cho toàn xã hội. Lao động sư phạm không cho phép tạo ra phế phẩm dù ở tỷ lệ rất nhỏ bé. Chính vì thế, hơn ai hết đội ngũ GV phải đảm đương trách nhiệm vinh quang và nặng nề mà xã hội tin tưởng giao phó cho mình. Đội ngũ GV phải có sự hợp nhất, đồng tâm, cùng làm, cùng chung vai gánh vác trách nhiệm, cùng chia sẻ và trao đổi những thành quả lao động của bản thân. Mặc dù để có được kết quả ấy, GV phải chờ đợi không chỉ năm năm, mười năm, hai mươi năm mà có khi là cả cuộc đời mình. Chất lượng đội ngũ GV thể hiện ở hệ thống các phẩm chất và năng lực của bản thân đội ngũ ấy. Chất lượng GV gắn với những yêu cầu, điều kiện, hoàn cảnh cụ thể.
Đặc điểm lao động sư phạm đòi hỏi phải coi trọng chất lượng của từng GV nhưng đồng thời cũng phải đặc biệt quan tâm đến chất lượng của toàn thể đội ngũ. Đó cũng là một trong những yêu cầu cơ bản của sự phân công lao động đối với hoạt động sư phạm. Mỗi GV vừa chịu trách nhiệm GD toàn diện nhân cách HS và đồng thời cũng chịu trách nhiệm về mỗi công đoạn cụ thể trong quá trình hình thành nhân cách người học. Chính vì vậy càng cần thiết phải có sự phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng trong hoạt động của đội ngũ GV.
Đối với nghề dạy học thì lòng yêu trẻ là một phẩm chất đạo đức cao quý đặc trưng nhất. Tình yêu trẻ là định hướng cho con người lựa chọn nghề dạy học. Nghệ thuật dạy học và bí quyết thành công của mỗi GV bắt nguồn từ tình cảm đầy nhân tính ấy. Đặc biệt, GV cần phải tôn trọng và đề cao nhân cách HS, biết tổ chức hoạt động và hợp tác với HS trong lớp học. Trên cơ sở khai thác tối đa những tiềm năng sáng tạo còn ẩn chứa tiềm tàng trong tâm hồn mỗi HS, nhằm đạt được mục tiêu GD với hiệu quả cao nhất. Lòng yêu thương con người là động lực mạnh mẽ giúp cho GV vượt qua mọi khó khăn thử thách để trở thành người “kỹ sư tâm hồn”như sự đánh giá trân trọng mà xã hội dành cho chức danh người thầy giáo.
Khi nói đến năng lực người thầy giáo là nói đến khả năng thực hiện các hoạt động dạy học và GD. Năng lực bộc lộ và thể hiện thông qua lao động sư phạm của GV. Đối với lao động sư phạm thì khả năng sáng tạo là một đặc điểm không thể thiếu ở mỗi GV. Năng lực này giúp cho người thầy giáo trở nên nhạy bén và linh hoạt trước mọi tình huống dạy học và GD.
Thực tiễn đã cho thấy rằng lao động sư phạm của người GV chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố sau:
Một là, quá trình đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng GV: Đặc điểm lao động sư phạm của GV đòi hỏi rất cao ở tính sáng tạo và linh hoạt, vì vậy chất lượng và thành quả lao động của người thầy giáo phụ thuộc chủ yếu vào sự thành thạo tinh thông nghề nghiệp. Sự tinh thông này có được nhờ sự lặp đi lặp lại nhiều lần một hoạt động và phải trải qua quá trình bổ sung liên tục, thường xuyên kiến thức, kỹ năng để đáp ứng tốt nhất sự phát triển GV theo yêu cầu đổi mới và vận động không ngừng của xã hội.
Hai là, hoàn cảnh và điều kiện lao động sư phạm của GV: Cơ hội tốt nhất để GV thể hiện năng lực của mình là trong môi trường sư phạm tốt, có đủ điều kiện tối thiểu cần thiết phục vụ cho hoạt động sư phạm. CBQL nhà trường có hiệu quả là người biết cách tổ chức hợp lý hoạt động sư phạm cho GV, biết tạo ra môi trường sư phạm thuận lợi và các điều kiện cơ bản để giúp cho GV có được sự nhiệt tình và lòng đam mê hơn với công việc, sẵn sàng trao đổi kinh nghiệm, học hỏi, giúp đỡ lẫn nhau. Đó chính là việc xây dựng môi trường tinh thần lành mạnh cho hoạt động sư phạm của đội ngũ GV.
Ba là, ý chí, thói quen và năng lực tự học của GV: Sự phát triển, đổi thay mạnh mẽ hiện nay của xã hội đòi hỏi GD nhà trường cũng phải đổi mới. GV là nhân tố năng động cơ bản nhất để thực hiện sự cách tân trong GD. Xây dựng và quản lý đội ngũ GV, đặc biệt là vấn đề nâng cao và hoàn thiện dần chất lượng đội ngũ thông qua việc trau dồi ý chí, thói quen năng lực tự học cho mỗi GV là một trong những biện pháp cơ bản, trọng tâm và thực sự có ý nghĩa thiết thực đối với hoạt động quản lý nhà trường của người hiệu trưởng trong giai đoạn hiện nay.
Ngoài những đặc điểm chung về lao động sư phạm của người thầy giáo như đã phân tích ở phần trên, đối với các trường THPT Tư thục, lao động sư phạm của người GV còn có những đặc điểm tương đối khác biệt như:
- Người thầy giáo phải thực sự có tâm huyết với công việc của mình, phải đầu tư nhiều hơn về mặt thời gian và công sức trong khi thực hiện nhiệm vụ.
- Người GV THPT Tư thục phải chịu nhiều áp lực trong công việc: Áp lực từ dư luận xã hội - ít sự tôn trọng hơn GV Công lập; áp lực từ đòi hỏi của phụ huynh khi phải nộp tiền học phí cao; áp lực từ chất lượng đầu vào thấp của HS.
- Người GV THPT Tư thục chịu ảnh hưởng rõ rệt của nền kinh tế thị trường.
- GV THPT Tư thục có số lượng không nhỏ GV thỉnh giảng tham gia giảng dạy, đội ngũ này thường xuyên thay đổi, mang tính thời vụ, thiếu sự ổn định. Do đó gây khó khăn cho việc điều hành, chỉ đạo các hoạt động chuyên môn.
- Một số GV THPT Tư thục còn có tư tưởng làm thuê, thiếu tâm huyết, chưa đầu tư tốt cho hoạt động dạy học và GD, chưa thực sự cố gắng tu dưỡng, rèn luyện phẩm