Yêu Cầu Của Công Tác Đấu Tranh Chống Loại Tội Phạm “Cố Ý Gây Thương Tích Hoặc Gây Tổn Hại Cho Sức Khỏe Của Người Khác” Ở Địa Phương Trong


quan giám định. Tuy nhiên, pháp luật chưa có quy định, văn bản hướng dẫn cụ thể việc thực hiện giám định thương tích và sử dụng Kết luận giám định pháp y về thương tích gây khó khăn cho việc áp dụng, xử lý của các cơ quan tư pháp, cụ thể:

Tại điểm b khoản 2 Điều 127 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: Với việc quy định về áp giải, dẫn giải trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã giúp các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng thuận tiện hơn trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Thực tiễn cho thấy vẫn còn có những trường hợp người bị hại từ chối giám định do nhiều nguyên nhân khác nhau, việc áp giải, dẫn giải là vấn đề phức tạp rất dễ bị phản ứng do có thể ảnh hưởng đến quyền con người. Thực tiễn chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về trình tự, thủ tục liên quan đến việc dẫn giải nên các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng gặp không ít khó khăn trong việc thực hiện. Đồng thời khi dẫn giải người bị hại đi giám định tuy nhiên người bị hại lại không hợp tác, không cho giám định viên thực hiện việc giám định, bỏ trốn thì không có cơ sở để thực hiện việc giám định dẫn đến không thể khởi tố vụ án, điều tra xử lý người có hành vi phạm tội.

2.3.2. Nguyên nhân

2.3.2.1. Nguyên nhân khách quan

Một là, hệ thống pháp luật làm cơ sở pháp lý cho công tác Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra nói chung, trong Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” nói riêng còn chưa đầy đủ và đồng bộ.

Hiện tại, còn có một số quy định còn chưa phù hợp với thực tiễn, chưa có văn bản hướng dẫn hoặc tuy có hướng dẫn nhưng chưa đầy đủ, rò ràng, gây nhiều cách hiểu khác nhau nên trong thực tiễn áp dụng vẫn còn có những quan điểm chưa thống nhất. Chẳng hạn như: Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy


định: khi Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự Kiểm sát viên có quyền "đề ra yêu cầu điều tra". Tuy nhiên trên thực tế, pháp luật chưa quy định các biện pháp buộc Điều tra viên phải thực hiện và chưa có chế tài đối với Điều tra viên trong trường hợp Điều tra viên cố tình không thực hiện yêu cầu điều tra gây ảnh hưởng đến tiến độ, hiệu quả giải quyết vụ án. Hoặc quy định về thời hạn xét, phê chuẩn quyết định khởi tố bị can của Viện kiểm sát trong thời hạn 03 ngày kể từ sau khi nhận được hồ sơ và công văn đề nghị phê chuẩn của Cơ quan điều tra chung cho tất cả các vụ án là chưa phù hợp với thực tiễn. Vì đối với những vụ án Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác có những tình tiết phức tạp, khó đánh giá về tội danh hoặc có đông người tham gia thì thời hạn này là quá ngắn, dẫn đến không bảo đảm chất lượng cho việc nghiên cứu, xem xét, phê chuẩn hoặc không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can của Viện kiểm sát.

Ngoài những quy định về thủ tục tố tụng thì những quy định của Bộ luật hình sự về tội “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” tại Điều 134 cũng chưa rò ràng, mà không có văn bản hướng dẫn cụ thể dẫn đến các cơ quan tố tụng và người áp dụng pháp luật có nhận thức và quan điểm khác nhau, nhất là về tình tiết định tội, định khung hình phạt mang tính chất “định tính” như: Tình tiết “có tính chất côn đồ”; “sử dụng axit nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm”; “phạm tội đối với người già yếu, đối với người chữa bệnh cho mình”… Mặc dù, trước đây đã có một số công văn, nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn về 1 số vấn đề như “tính chất côn đồ” hoặc “Phạm tội đối với người già” hoặc “hung khí nguy hiểm” trong quy định của tội “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” tại Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999. Nhưng các văn bản này đến nay đã hết hiệu lực về mặt thời gian nên không thể xem là những căn cứ pháp lý trong việc áp dụng pháp luật. Đồng

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 90 trang tài liệu này.


thời còn có rất nhiều các tình tiết mới được bổ sung trong các khoản, điểm của Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 cần có hướng dẫn cụ thể để thống nhất áp dụng.

Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai - 9

Bên cạnh đó, những quy định của pháp luật về giám định pháp y về thương tích cũng còn có nhiều hạn chế. Theo quy định của Bộ luật hình sự tội “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác” là tội có cấu thành hình thức nên để giải quyết các vụ án phải dựa trên căn cứ kết luận giám định thương tích của cơ quan giám định. Đây là kết luận khoa học của cơ quan chuyên môn về tỷ lệ phần trăm thương tích, xem hành vi đó có gây ra thương tích cho bị hại không, nếu có thì tỉ lệ tổn thương cơ thể là bao nhiêu, có đủ mức định lượng trong cấu thành tội phạm mà Bộ luật hình sự quy định không. Tuy nhiên, hiện nay pháp luật chưa có quy định, văn bản hướng dẫn cụ thể việc thực hiện thủ tục giám định thương tích trong trường hợp bị hại từ chối giám định. Cụ thể: Tại điểm b khoản 2 Điều 127 BLTTHS quy định: “2. Dẫn giải có thể áp dụng đối với người bị hại trong trường hợp họ “từ chối việc giám định theo quyết định trưng cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan”. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, vẫn còn có những trường hợp người bị hại từ chối giám định do nhiều nguyên nhân khác nhau, việc áp giải, dẫn giải là vấn đề phức tạp rất dễ bị phản ứng do có thể ảnh hưởng đến quyền con người. Thực tiễn chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về trình tự, thủ tục liên quan đến việc dẫn giải nên các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng gặp không ít khó khăn trong việc thực hiện. Đồng thời khi dẫn giải người bị hại đi giám định tuy nhiên người bị hại lại không hợp tác, không cho giám định viên thực hiện việc giám định, bỏ trốn thì không có cơ sở để thực hiện việc giám định dẫn đến không thể khởi tố vụ án, điều tra xử lý người có hành vi phạm tội.Hoặc pháp luật cũng chưa quy định rò về giá trị sử dụng của kết


luận giám định pháp y về thương tích của cơ quan giám định các cấp khi cùng kết luận về một vấn đề được trưng cầu giám định trong vụ án, gây khó khăn cho việc áp dụng, xử lý của các cơ quan tư pháp trong việc sử dụng nguồn chứng cứ này.

Hai là, các điều kiện về vật chất như cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho công tác Thực hành quyền công tố chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu thực hiện nhiệm vụ

Điển hình là, theo quy định tại khoản 6 Điều 183 Bộ luật tố tụng hình sự thì khi hỏi cung bị can tại cơ sở giam giữ hoặc tại trụ sở cơ quan Cơ quan điều tra, cơ quan Viện kiểm sát bắt buộc phải thực hiện ghi âm, ghi hình có âm thanh. Tuy nhiên, hiện nay cả Cơ quan điều tra huyện và Viện kiểm sát huyện chưa được trang bị phòng ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh; phương tiện, thiết bị kỹ thuật sử dụng để ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh. Và cũng không có biên chế về cán bộ chuyên môn để quản lý hệ thống phương tiện, thiết bị kỹ thuật này và bảo quản, lưu trữ kết quả dữ liệu ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh các cuộc hỏi cung bị can. Do đó, ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra việc hỏi cung bị can, hoặc trực tiếp tiến hành hỏi cung bị can trong điều tra các vụ án Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác của Cơ quan điều tra, và Viện kiểm sát địa phương.

2.3.2.2. Nguyên nhân chủ quan

Một là, trình độ, năng lực, ý thức trách nhiệm của một số cán bộ, Kiểm sát viên vẫn còn hạn chế. Mặc dù, theo khảo sát, thống kê của tác giả thì trình độ lý luận chính trị, năng lực chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ, Kiểm sát viên của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom đã được nâng cao (tất cả các Kiểm sát viên đều có trình độ đại học Luật, có trình độ trung cấp lý luận chính trị hoặc tương đương). Tuy nhiên, một bộ phận, cán bộ, Kiểm sát viên


còn hạn chế về năng lực thực tế, kinh nghiệm trong quá trình giải quyết án nên chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay.

Cụ thể là, một số Kiểm sát viên chưa nắm vững các quy định pháp luật hình sự và tố tụng hình sự, không xác định đúng đặc trưng của tội phạm, các yếu tố cấu thành tội phạm, còn lúng túng trong thao tác nghiệp vụ. Nhiều Kiểm sát viên chưa chịu khó học hỏi kinh nghiệm, nghiên cứu chưa đầy đủ các quy định của pháp luật, quy chế nghiệp vụ ngành, không kịp thời cập nhập các văn bản quy phạm pháp luật, hướng dẫn mới để kịp thời thực hiện.

- Quá trình Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án "Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác", một số Kiểm sát viên còn thụ động, chưa nâng cao tinh thần trách nhiệm, chưa chủ động thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình và phối hợp với Điều tra viên trong việc thu thập tài liệu, chứng cứ giải quyết vụ án.

Một số Kiểm sát viên có trình độ lý luận còn hạn chế, từ đó chưa thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ chưa cao và thiếu kinh nghiệm công tác nên một số Kiểm sát viên chưa thể hiện được bản lĩnh, không bảo vệ được quan điểm giải quyết vụ án của mình, chưa kiên quyết còn có thái độ nể nang đối với các vi phạm tố tụng của Cơ quan điều tra gây ảnh hưởng đến hiệu quả giải quyết vụ án.

Hai là, mối quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra, giữa Kiểm sát viên và Điều tra viên của các cơ quan tiến hành tố tụng trong điều tra các vụ án "Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác" tại địa bàn huyện Trảng Bom đôi khi thiếu chặt chẽ, thống nhất.

Điển hình là, Cơ quan điều tra chưa chủ động trao đổi, phối hợp Viện kiểm sát khi gặp các khó khăn, vướng mắc phát sinh trong giải quyết vụ án. Trong một số vụ án, Điều tra viên chưa thực hiện, hoặc thực hiện không đầy đủ các yêu cầu điều tra của Kiểm sát viên một cách triệt để, đối phó dẫn đến


phải yêu cầu điều tra bổ sung hoặc yêu cầu nhiều lần ảnh hưởng đến tiến độ giải quyết vụ án.. Nhiều Điều tra viên còn chủ quan duy ý chí, phiến diện trong việc đánh giá chứng cứ, định tội từ đó dẫn đến việc thu thập tài liệu, chứng cứ chưa đầy đủ. Chú trọng các chứng cứ định tội, coi nhẹ các chứng cứ gỡ tội, định khung hình phạt, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên Kiểm sát viên phải trả hồ sơ điều tra bổ sung nhiều lần.

Kết luận Chương 2

Nội dung Chương 2, tác giả sử dụng các phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh để làm rò thực trạng Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom. Trên cơ sở các số liệu thống kê của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom trong 05 năm (2015 - 2019), tác giả làm rò những ưu điểm, kết quả đạt được, những hạn chế, sai sót về lĩnh vực hoạt động này của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom và nguyên nhân kết quả đạt được.


Chương 3

YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN CỐ Ý

GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN TRẢNG BOM,

TỈNH ĐỒNG NAI


3.1. Yêu cầu của công tác đấu tranh chống loại tội phạm “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” ở địa phương trong thời gian tới.

Trong bối cảnh tiếp tục thực hiện chủ trương về cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW với mục tiêu xuyên suốt là xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa..., Việc trấn áp tội phạm "Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác" là nhiệm vụ trọng tâm của các cơ quan tiến hành tố tụng huyện Trảng Bom trong công tác đấu tranh, phòng chống các loại tội phạm, xử lý nghiêm minh đối với loại tội phạm này vì nó góp phần ổn định tình hình trật tự xã hội, an ninh chính trị tại địa phương và bảo vệ các quyền lợi chính đáng, hợp pháp của nhân dân. Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom đã và đang từng bước hoàn thiện các quy chế phối hợp với Cơ quan điều tra của huyện Trảng Bom thể hiện rò sự phối hợp về chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền hoạt động, hoàn thiện theo hướng xác định đúng, đủ quyền năng pháp lý nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, đề cao trách nhiệm và nâng cao vị thế trong thực hiện nhiệm vụ.


3.2. Yêu cầu nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án có ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác.

Thông qua thực tiễn đánh giá hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác có những kết quả đạt được cũng như có những hạn chế, khó khăn, vướng mắc của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom trong giai đoạn điều tra các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong thời gian qua, từ đó cần thiết phải nâng cao chất lượng hơn nữa chất lượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, gắn công tố với kiểm sát điều tra, đòi hỏi các yêu cầu đưa ra phải đúng với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, bám sát được với thực tiễn và cơ bản giải quyết được những hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Ngoài ra phải đảm bảo phù hợp với quan điểm phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe con người nói riêng.

Hoạt động Thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra phải phù hợp với các quy định của pháp luật, phù hợp với định hướng cải cách tư pháp theo Nghị quyết 49/NQ/TW về chính sách hình sự, phù hợp với quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, đảm bảo quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền con người trong tố tụng hình sự, chủ động ngăn ngừa tội phạm, mọi tội phạm phải được phát hiện nhanh chóng, chính xác, xử lý nghiêm minh, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.

Hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra dựa trên cơ sở thể chế hoá các quy định của Hiến pháp năm 2013, các quy định của pháp luật

Xem tất cả 90 trang.

Ngày đăng: 24/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí