Mua Nợ Quá Hạn Của Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Bởi Công Ty Mua Bán Nợ

Bên cạnh tối đa hóa lợi nhuận, tính cạnh tranh thì yêu cầu đảm bảo an toán (gồm có an toàn thanh khoản và an toàn tín dụng, các an toàn khác…) luôn được đặt lên hàng đầu bởi lý do "Ngân hàng thương mại cổ phần luôn kinh doanh bằng tiền của người khác" (quan điểm của ngân hàng thương mại cổ phần Anh) bởi trên thực tế vốn chủ sở hữu của ngân hàng thương mại cổ phần thường chiếm một phần rất nhỏ (10%) mà thôi. Số vốn còn lại ngân hàng thương mại cổ phần huy động từ các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp khác. Việc luật hóa các quy định liên quan đến hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại cổ phần trước khi có Quy chế cho vay 1627 cũng đặt ra nguyên tắc bắt buộc khi vay vốn tại các TCTD đó là nguyên tắc bảo đảm tiền vay. Quy chế cho vay 1627 ra đời trao quyền tự chủ cho các ngân hàng thương mại cổ phần, theo đó các ngân hàng thương mại cổ phần được toàn quyền lựa chọn khách hàng vay trong việc cho vay có bảo đảm hoặc cho vay không có bảo đảm trừ trường hợp một số khoản vay theo chỉ định của chính phủ [17].

Xuất phát từ những phân tích trên đây thì việc đặt ra các biện pháp bảo đảm tiền vay đã tạo cơ sở, tiền đề an toàn trong hoạt động cho vay của các NHTM nói chung bởi "rủi ro tín dụng là đặc trưng tiêu biểu nhất, dễ xảy ra nhất trong hoạt động ngân hàng thương mại cổ phần", do vậy khi cho vay ngân hàng thương mại cổ phần luôn yêu cầu khách hàng phải cam kết kèm theo các điều kiện vay vốn, điều khoản về TSBĐ tiền vay. Các điều kiện về TSBĐ tiền vay có thể kể đến như: trị giá TSBĐ so với nghĩa vụ được bảo đảm, tính thanh khoản của TSBĐ, tính hợp pháp của TSBĐ…Chính vì vậy khi đến hạn thanh toán của các khoản nợ mà khách hàng không trả được gốc và lãi cũng như không được ngân hàng thương mại cổ phần gia hạn nợ thì ngân hàng thương mại cổ phần buộc phải xử lý TSBĐ và đương nhiên TSBĐ mà khách hàng vay dung bảo đảm cho khoản nợ đó sẽ được xử lý theo hợp đồng tín dụng cũng như theo quy định của pháp luật. Nói tóm lại mục đích của việc xử lý TSBĐ tiền

vay là nhằm thu hồi nợ mà khách hàng đã vay của NHTM khi khách hàng vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ.

Các cách thức xử lý TSBĐ

a. Tài sản được xử lý theo thỏa thuận

Tài sản bảo đảm được xử lý theo thỏa thuận giữa các TCTD trực tiếp cho vay và bên bảo đảm tại hợp đồng tín dụng hoặc hợp đồng bảo đảm. Các ngân hàng thương mại cổ phần cho vay và khách hàng có thể thỏa thuận sửa đổi, bổ sung hoặc thỏa thuận mới về xử lý TSBĐ, việc thỏa thuận này phải được lập thành văn bản. Phương thức xử lý TSBĐ theo thỏa thuận trong trường hợp cầm cố, thế chấp được quy định tại Điều 336 và Điều 355 Bộ luật dân sự 2005:

Trong trường hợp đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ dân sự mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện nghĩa vụ không đúng thỏa thuận thì tài sản cầm cố/thế chấp được xử lý theo phương thức do các bên đã thỏa thuận hoặc được bán đấu giá theo quy định của pháp luật để thực hiện nghĩa vụ. Bên nhận cầm cố/thế chấp được ưu tiên thanh toán từ số tiền bán tài sản cầm cố/thế chấp. Phương thức xử lý tài sản cầm cố, thế chấp theo thỏa thuận bao gồm:

• Bán các TSBĐ tiền vay: bán TSBĐ là việc các ngân hàng thương mại cổ phần hoặc bên bán bảo đảm hoặc các bên phối hợp để bán tài sản trực tiếp cho người mua hoặc ủy quyền cho bên thứ ba (NH ủy quyền cho trung tâm bán đấu giá tài sản hoặc doanh nghiệp bán đấu giá tài sản thực hiện việc bán TSBĐ tiền vay) bán tài sản cho người mua.

• Nhận chính TSBĐ để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm. Đó là việc ngân hàng thương mại cổ phần trực tiếp nhận TSBĐ, lấy giá TSBĐ được định giá khi xử lý làm cơ sở để thanh toán nợ gốc, lãi vay, lãi quá hạn của bên bảo đảm sau khi trừ đi các ngân hàng thương mại cổ phần và bên bảo đảm lập biên bản nhận TSBĐ để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ được

bảo đảm. Sau khi nhận TSBĐ để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm, ngân hàng thương mại cổ phần được làm thủ tục nhận chuyển giao quyền sở hữu, quyền sử dụng TSBĐ hoặc được bán, được chuyển nhượng TSBĐ cho bên mua, bên nhận chuyển nhượng theo quy định của pháp luật. Sau khi TSBĐ đã được xử lý để thu hồi nợ, ngân hàng thương mại cổ phần hoặc các bên bảo đảm tiến hành xóa đăng ký xử lý tài sản, xóa đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định của pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.

• Trong trường hợp bảo lãnh: ngân hàng thương mại cổ phần được trực tiếp nhận các khoản tiền hoặc tài sản từ bên thứ ba trong trường hợp bên thứ ba có nghĩa vụ trả tiền hoặc tài sản cho khách hàng vay, bên bảo lãnh. Khi khách hàng vay không trả được nợ hoặc bên thứ ba, bảo lãnh bằng tài sản không thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, ngân hàng thương mại cổ phần có quyền chuyển giao quyền thu hồi lị hoặc ủy quyền cho bên thứ ba xử lý TSBĐ. Bên thứ ba là tổ chức có tư cách pháp nhân và được thực hiện quyền thu hồi nợ hoặc xử lý TSBĐ theo quy định của pháp luật. Các ngân hàng thương mại cổ phần hoặc bên bảo đảm phải thông báo cho bên thứ ba biết về việc ngân hàng thương mại cổ phần được nhận các khoản tiền, tài sản nêu trên, đồng thời yêu cầu bên thứ ba giao các khoản tiền, tài sản đó cho các ngân hàng thương mại cổ phần. Việc giao các khoản tiền, tài sản cho ngân hàng thương mại cổ phần phải thực hiện theo đúng thời hạn, địa điểm được ấn định trong thông báo xử lý TSBĐ. Trong trường hợp được ngân hàng thương mại cổ phần chuyển giao quyền đòi nợ bên thứ ba có quyền thực hiện các biện pháp để thu hồi nợ hoặc xử lý TSBĐ như ngân hàng thương mại cổ phần. Trong trường hợp được ngân hàng thương mại cổ phần ủy quyền xử lý tài sản thì bên thứ ba được xử lý TSBĐ trong phạm vi được ủy quyền. Các ngân hàng thương mại cổ phần sẽ lập biên bản nhận các khoản tiền, tài sản giữa ngân hàng thương mại cổ phần, bên bảo đảm và bên thứ ba. Biên bản nhận các khoản tiền, tài sản phải

ghi rõ việc bàn giao, tiếp nhận các khoản tài sản, định giá tài sản và thanh toán nợ từ việc xử lý tài sản [26].

So sánh pháp luật Việt Nam và Hoa Kỳ về xử lý nợ quá hạn tại các ngân hàng thương mại cổ phần - 6

b. Xử lý tài sản bảo đảm trong trường hợp không có thỏa thuận riêng

Xử lý TSBĐ trong trường hợp không có thỏa thuận riêng thì bên bảo đảm có quyền chủ động lựa chọn một trong số các phương thức xử lý TSBĐ sau:

• Trực tiếp bán TSBĐ bằng cách chào bán công khai trên thị trường.

• Hoặc ngân hàng thương mại cổ phần có quyền ủy quyền bán đấu giá cho trung tâm bán đấu giá tài sản hoặc doanh nghiệp bán đấu giá tài sản.

• Hoặc chuyển giao việc xử lý TSBĐ cho các tổ chức có chức năng được mua tài sản để bán như AMC - Công ty mua bán nợ thuộc NHTM hoặc Công ty mua và xử lý tài sản tồn đọng - Bộ tài chính. Hợp đồng mua bán tài sản giữa ngân hàng thương mại cổ phần và bên mua tài sản được lập thành văn bản.

c. Xử lý tài sản bảo đảm trong trường hợp cụ thể

(i) Trường hợp xử lý TSBĐ để thu hồi nợ quá hạn đối với doanh nghiệp khi chia, tách, hợp nhất, sát nhập, chuyển đổi, cổ phần hóa

Đối với doanh nghiệp khi chia, tách, hợp nhất, sát nhập, chuyển đổi, cổ phần hóa khi tài sản thế chấp không thể phân chia được tương ứng với nghĩa vụ trả nợ và các doanh nghiệp chia, tách không có thỏa thuận khác về biện pháp bảo đảm. Còn đối với doanh nghiệp hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi, cổ phần hóa được tiếp tục dung chính TSBĐ cho các khoản nợ đó của doanh nghiệp mới sau khi được hợp nhất, chuyển đổi, cổ phần hóa.

Trường hợp TSBĐ có nguy cơ dễ hư hỏng thì ngân hàng thương mại cổ phần được xử lý TSBĐ ngay sau khi thông báo xử lý TSBĐ. Bên bảo đảm phối hợp với ngân hàng thương mại cổ phần thực hiện các biện pháp chuẩn bị cho việc xử lý TSBĐ như bàn giao TSBĐ cho ngân hàng thương mại cổ phần, bàn giao giấy tờ có liên quan đến TSBĐ theo yêu cầu của ngân hàng thương mại cổ phần (trong trường hợp bên bảo đảm hoặc bên thứ ba giữ giấy tờ,

TSBĐ, ngân hàng thương mại cổ phần ấn định ngày giao giấy tờ, tài sản đó để xử lý trong thông báo xử lý TSBĐ. Nếu bên giữ TSBĐ không thực hiện, thì ngân hàng thương mại cổ phần có quyền yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp buộc bên giữ tài sản đảm bảo phải giao giấy tờ, tài sản

(ii) Xử lý nợ quá hạn trong trường hợp cho vay theo chỉ định của Chính phủ

Theo quy định của Luật các TCTD 2010 và Nghị định 163/2006/NĐ- CP của Chính phủ về giao dịch bảo đảm thì khách hàng có đủ các điều kiện sau đây thì vay không cần có TSBĐ:

Sử dụng vốn vay có hiệu quả và trả nợ gốc lãi đúng thời hạn trong quan hệ vay vốn đối với các TCTD cho vay hoặc TCTD khác và tính khả thi của phương án, dự án đầu tư theo quy định của pháp luật như: Có khả năng tài chính thực hiện nghĩa vụ trả nợ; Cam kết thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tài sản theo yêu cầu của TCTD nếu sử dụng vốn vay không đúng cam kết trong hợp đồng tín dụng, cam kết trả nợ trước hạn nếu không thực hiện được các biện pháp bảo đảm bằng tài sản quy định tại điều này; ối với các doanh nghiệp ngoài các điều kiện trên còn phải là khách hàng tín nhiệm theo tiêu chí tại hệ thống tính điểm và xếp hạng tín dụng hoặc đơn vị trực tiếp cho vay và khách hàng vẫn có thể thoả thuận với bên thứ ba cam kết bằng uy tín và năng lực tài chính của mình trả nợ thay bằng văn bản nếu khách hàng vay không trả nợ thay được; ngoài ra trong một số trường hợp NHTM cho vay không có TSBĐ theo chỉ định của Chính phủ, khi phát sinh các tổn thất do nguyên nhân khách quan thì việc xử lý theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của NHNN Việt Nam. Trường hợp cho vay bảo đảm bằng tín chấp của các tổ chức đoàn thể khác nhau cho các hội viên (Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Đoàn thanh niên, Hội nông dân…), tuy nhiên giá trị của các khoản vay thường không lớn và hạn chế về đối tượng được vay [6].

Trong một số trường hợp: TCTD nhà nước cho vay không có bảo đảm

đối với khách hàng vay để thực hiện các dự án đầu tư thuộc chương trình kinh tế đặc biệt, chương trình kinh tế trọng điểm của nhà nước, chương trình kinh tế - xã hội và đối với khách hàng được hưởng các chính sách tín dụng ưu đãi về điều kiện vay vốn theo quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ.

(iii) Trường hợp xử lý nợ quá hạn của DNNN

Trong trường hợp khoản vay không có TSBĐ đã đến hạn thanh toán mà khách hàng vay không thực hiện nghĩa vụ đối với NHTM thì tùy từng trường hợp cụ thể để giải quyết. Tại Quyết định số 149/2001 về việc phê duyệt đề án xử lý nợ tồn đọng đối với DNNN cùng với việc thành lập ban chỉ đạo cơ cấu lại tài chính NHTM, không để tái diễn gây ảnh hưởng hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần, mặt khác phải tận thu hạn chế tổn thất tài sản quốc gia. Theo đó, việc xử lý nợ tồn đọng của hệ thống NHTM nhà nước được thực hiện theo phương thức sau:

Trường hợp cho vay không có TSBĐ và không có đối tượng để thu hồi nợ sau đó báo cáo NHNN để trình ban chỉ đạo cơ cấu ngân hàng thương mại cổ phần xem xét trước khi trình Thủ tướng Chính phủ quyết định xử lý.

Trường hợp khoản nợ tồn đọng không có TSBĐ nhưng con nợ còn tồn tại, đang hoạt động thì các AMC có thể bán lại nợ, hoặc chuyển nợ thành vốn góp trong doanh nghiệp, hoặc đánh giá lại các khoản nợ tồn đọng đối với DNNN để xác định giá trị thực còn lại của khoản nợ được xử lý theo phương thức chuyển thành vốn góp nhà nước cấp bổ sung cho doanh nghiệp, đồng thời nhà nước cấp bù vốn cho NHTM tương ứng với số nợ tồn đọng hoặc xác định số nợ doanh nghiệp còn phải tiếp tục hoàn trả ngân hàng thương mại cổ phần và cấp bù vốn cho NHTM nhà nước phần chênh lệch do đánh giá lại.

Căn cứ vào thực trạng và khả năng trả nợ của từng doanh nghiệp được cơ cấu lại các khoản nợ bằng hình thức phù hợp như: giãn nợ, miễn giảm lãi suất hoặc cấp thêm vốn cho doanh nghiệp để đầu tư thêm.

Đối với khoản vay của doanh nghiệp, nhà nước sẽ được xử lý dứt điểm theo nguyên tắc dân sự, kinh tế chung. Việc giải quyết nợ tồn đọng này nhằm lành mạnh hóa tình hình tài chính của các doanh nghiệp trong nước và xử lý tồn tại trong cơ chế, chính sách về xử lý nợ. Theo đó, Chính phủ khoanh vùng, xử lý dứt điểm nợ phải thu và nợ phải trả của doanh nghiệp đối với ngân sách và NHTM nhà nước. Các doanh nghiệp thua lỗ liên tục sẽ bị giải thể. DNNN nào hoạt động tốt thì cho khoanh nợ, cấp vốn bổ sung. Đối với các doanh nghiệp đang làm thủ tục chuyển đổi sẽ được áp dụng cơ chế xử lý nợ riêng để lành mạnh hóa tài chính sau chuyển đổi. Mục đích của chính sách này là giải quyết dứt điểm nợ đọng của DNNN tạo sức cạnh tranh, giảm áp lực cho ngân sách nhà nước. Cụ thể:

• Doanh nghiệp nhà nước lập hồ sơ xác định số liệu và nguyên nhân tồn đọng đối với khoản nợ phải thu nhưng không có khả năng thu để xử lý hoặc trình cơ quan có thẩm quyền.

• Khoản nợ phải trả ngân sách nhưng doanh nghiệp đã chiếm dụng để đầu tư thành tài sản đến nay vẫn không có khả năng thanh toán thì doanh nghiệp lập phương án xử lý nợ, huy động toàn bộ nguồn hiện có để bù đắp.

• Trường hợp doanh nghiệp bị thua lỗ hoặc không có khả năng thanh toán khoản nợ phải trả cho NHTM thì doanh nghiệp được xóa nợ lãi vay ngân hàng thương mại cổ phần với mức nhỏ hơn hoặc bằng số lỗ còn lại sau khi xử lý nợ ngân sách.

• Khoản tổn thất do khoanh nợ hoặc xóa nợ cho DNNN được tính vào chi phí của các ngân hàng thương mại cổ phần và bù đắp bằng quỹ dự phòng rủi ro.

Các văn bản quy định nêu trên là một chính sách ưu đãi và hỗ trợ tín dụng của Nhà nước đối với một số đối tượng kinh doanh trong những ngành nghề, lĩnh vực nhà nước khuyến khích phát triển như nông, lâm, ngư nghiệp, vùng sâu, vùng xa hoặc vùng kinh tế khó khăn, các DNNN. Quy định này

nhằm đảm bảo tối đa quyền lợi của các cá nhân, tổ chức để phát triển sản xuất kinh doanh nếu họ chứng minh được mình thuộc diện ưu đãi vay vốn theo quy định của pháp luật.

2.1.5. Mua nợ quá hạn của ngân hàng thương mại cổ phần bởi công ty mua bán nợ

Tại Việt Nam mô hình công ty mua bán nợ là mô hình hỗn hợp, có sự tồn tại song song của công ty mua bán nợ của Nhà nước và các công ty mua bán nợ trực thuộc các NHTM bao gồm:

Công ty mua bán nợ trực thuộc Nhà nước hay Công ty mua, bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp được thành lập theo Quyết định số 109/2003/QĐ-TTg ngày 5/6/2003 của Thủ tướng Chính phủ, có tên giao dịch quốc tế: Debt and Asset Trading Corporation (DATC) "Là pháp nhân thuộc sở hữu nhà nước, được tổ chức và hoạt động theo mô hình công ty nhà nước" [5].

Công ty mua bán nợ trực thuộc các NHTM hay còn gọi là Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản được thành lập theo Quyết định số 1389/2001/QĐ-NHNN về việc Ban hành quy định về việc thành lập công ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc NHTM của Thống đốc NHNN. Theo đó, "Ngân hàng thương mại cổ phần được thành lập công ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc ngân hàng thương mại cổ phần , có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập bằng vốn tự có" [15].

a. Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng doanh nghiệp (DATC)

Công ty mua bán nợ trực thuộc Nhà nước hay Công ty mua, bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp (DATC) chủ yếu xử lý các khoản nợ tồn đọng và tài sản không cần dùng, chờ thanh lý, vật tư ứ đọng kém, mất phẩm chất (dưới đây gọi tắt là nợ và tài sản tồn đọng) góp phần lành mạnh hóa tình hình tài chính doanh nghiệp, thúc đẩy quá trình sắp xếp và chuyển đổi DNNN.

Về tư cách pháp nhân, theo Điều 3 Quyết định số 109/2003/QĐ-TTg

Ngày đăng: 10/11/2023