lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn đã được cơ cấu lại. Các khoản nợ này được TCTD đánh giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn.
Ngoài ra, trong trường hợp một khách hàng có nhiều hơn một khoản nợ với TCTD mà có bất kỳ khoản nợ bị chuyển sang nhóm nợ rủi ro cao hơn thì TCTD bắt buộc phải phân loại các khoản nợ còn lại của khách hàng đó vào nhóm nợ rủi ro cao hơn tương ứng với mức độ rủi ro; trường hợp các khoản nợ (kể cả các khoản nợ trong hạn theo thời hạn nợ đã cơ cấu lại) mà TCTD có đủ cơ sở để đánh giá là khả năng trả nợ của khách hàng bị suy giảm thì TCTD chủ động tự quyết định phân loại các khoản nợ đó vào nhóm nợ rủi ro cao hơn tương ứng với mức độ rủi ro.
1.1.2.2. Bản chất nợ quá hạn
Nợ quá hạn trong hoạt động cho vay của ngân hàng là hiện tượng khi đến thời hạn thanh toán các khoản nợ theo hợp đồng tín dụng mà người đi vay không có khả năng thực hiện ngay nghĩa vụ trả nợ của mình cho ngân hàng theo hợp đồng.
Như vậy, nợ quá hạn chính là kết quả mối quan hệ tín dụng không thành công, nó vi phạm những điểm đặc trưng cơ bản của hoạt động tín dụng đầu tiên là thời hạn, sau đó là tính hoàn trả đầy đủ gây nên sự đổ vỡ lòng tin của bên cấp tín dụng là các ngân hàng thương mại cổ phần. Một khoản tín dụng được cấp luôn được ác định bởi hai yếu tố là: thời hạn hoàn trả vả lượng giá trị được hoàn trả. Nợ quá hạn phát sinh khi đến thời hạn trả nợ theo hợp đồng, người đi vay không có khả năng trả nợ một phần hoặc toàn bộ khoản nợ cho ngân hàng.
1.2. NGUYÊN NHÂN VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NỢ QUÁ HẠN
Tùy vào đặc điểm của hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần ở từng quốc gia mà nguyên nhân dẫn đến nợ quá hạn có những tính chất đặc thù riêng. Ở đây tác giả chỉ xem xét những nguyên nhân chung nhất và cung cấp
cho người đọc một lối tư duy tiếp cận để có thể tự vận dụng xem xét vấn đề này trong từng hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần hoặc một ngân hàng thương mại cổ phần cụ thể.
1.2.1. Nguyên nhân
1.2.1.1. Nguyên nhân chủ quan từ phía ngân hàng thương mại cổ phần
Có thể bạn quan tâm!
- So sánh pháp luật Việt Nam và Hoa Kỳ về xử lý nợ quá hạn tại các ngân hàng thương mại cổ phần - 1
- So sánh pháp luật Việt Nam và Hoa Kỳ về xử lý nợ quá hạn tại các ngân hàng thương mại cổ phần - 2
- Một Số Mô Hình Xử Lý Nợ Quá Hạn Trên Thế Giới
- Căn Cứ Xác Định Nợ Quá Hạn Trong Hoạt Động Cho Vay Của Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Ở Việt Nam
- Mua Nợ Quá Hạn Của Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Bởi Công Ty Mua Bán Nợ
Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.
Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại cổ phần, cũng giống như mọi giao dịch ngân hàng thương mại cổ phần khác luôn chịu tác động bởi vấn đề thông tin không cân xứng. Thông tin không cân xứng được hiểu là sự không cân bằng về thông tin mà mỗi bên trong giao dịch có được. Nó sẽ gây ra rủi ro cho ngân hàng thương mại cổ phần ở hai mặt: lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Lựa chọn đối nghịch là vấn đề do thông tin không cân xứng tạo ra trước khi diễn ra cuộc giao dịch. Lựa chọn đối nghịch xảy ra khi những người đi vay có nhiều khả năng tạo ra một kết cục không mong muốn (tức là những rủi ro không trả được nợ) lại là những người tích cực tìm vay nhất và do vậy là người có nhiều khả năng được lựa chọn nhất. Rủi ro đạo đức là vấn đề do thông tin không cân xứng tạo ra sau khi cuộc giao dịch diễn ra. Rủi ro đạo đức xảy ra khi người vay có ý muốn thực hiện những hoạt động không tốt xét theo quan điểm của người cho vay, bởi vì những hoạt động này làm cho món vay ít có khả năng được thanh toán đầy đủ và đúng hạn.
Xuất phát từ đặc điểm này trong hoạt động cho vay mà ngân hàng thương mại cổ phần phải xây dựng cho mình một quy trình tín dụng chặt chẽ, hệ thống thẩm định dự án xin vay và hệ thống đánh giá, kiểm soát mức độ rủi ro tín dụng của các khoản cho vay. Khi một trong hai nghiệp vụ lựa chọn khoản vay và giám sát khoản vay của ngân hàng thương mại cổ phần không được thực hiện tốt, tất yếu sẽ làm phát sinh các khoản nợ quá hạn.
Tựu chung, có ba nguyên nhân chính từ phía ngân hàng thương mại cổ phần dẫn đến nợ quá hạn:
- Sự thiếu chặt chẽ, hợp lý trong quy chế hoạt động hoặc quy trình nghiệp vụ của ngân hàng thương mại cổ phần: Hoạt động ngân hàng thương mại cổ phần luôn luôn thay đổi và phát triển nên yêu cầu về cải tiến, bổ sung và chỉnh lý quy định và quy trình hoạt động là nhu cầu cần thiết. Ngân hàng thương mại cổ phần thiếu một chính sách cho vay rõ ràng, phù hợp với đặc điểm và thực trạng nền kinh tế có thể dẫn tới hậu quả nghiêm trọng về nợ quá hạn.
- Trình độ yếu kém của cán bộ ngân hàng thương mại cổ phần: Việc phân tích đánh giá khả năng trả nợ cũng như tình hình tài chính của khách hàng là một nghệ thuật đòi hỏi kinh nghiệm và khả năng nhạy bén của cán bộ ngân hàng thương mại cổ phần. Cán bộ ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém cũng dẫn đến việc ngân hàng thương mại cổ phần không kịp thời đề ra được các giải pháp hiệu quả nhằm tăng cường khả năng trả nợ của khách hàng khi món vay xuất hiện những dấu hiệu yếu kém.
- Nạn tham nhũng, hối lộ trong hoạt động ngân hàng thương mại cổ phần: Như đã nói ở trên, các quyết định cho vay của ngân hàng thương mại cổ phần phụ thuộc một phần vào chủ quan của cán bộ ngân hàng thương mại cổ phần. Do đó cán bộ ngân hàng thương mại cổ phần tham nhũng tất yếu dẫn đến nguy cơ các khoản nợ quá hạn tăng cao.
1.2.1.2. Nguyên nhân khách quan từ môi trường bên ngoài
Chính sách và pháp luật
Chính phủ và NHNN
Khách hàng
NHTM
- Khách hàng
- Nhà cung cấp
- Đối thủ cạnh tranh
- Môi trường chính sách, kinh tế - chính trị - xã hội
- Các nhân tố khác...
Khả năng trả nợ
Thông tin và cạnh tranh
Chính sách và pháp luật
Chính sách và pháp luật
Tổ chức tài chính khác
Nguồn: Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà nước Việt Nam.
Sơ đồ 1.1: Nguyên nhân khách quan từ môi trường bên ngoài của nợ quá hạn
- Từ phía Chính phủ: Chính phủ, với chức năng điều hành nền kinh tế vĩ mô và thiết lập môi trường pháp lý, sẽ có tác động không chỉ trực tiếp đến hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần mà còn tác động gián tiếp thông qua các thực thể kinh tế khác là khách hàng của ngân hàng thương mại cổ phần. Khi những chính sách kinh tế vĩ mô có những thay đổi bất thường, không đồng bộ, tạo ra một môi trường pháp lý và môi trường hoạt động bất ổn, không thể dự đoán trước đối với các ngân hàng thương mại cổ phần với tư cách là người cho vay và với doanh nghiệp với tư cách là người đi vay thì cả hai đối tượng này sẽ gặp phải những rủi ro tất yếu dẫn đến tình trạng nợ quá hạn tăng cao.
- Từ phía khách hàng: Khách hàng đôi khi gặp phải những khó khăn không thể lường trước và nằm ngoài ý muốn chủ quan như sự thay đổi của môi trường vĩ mô, sự biến động về kinh tế - chính trị - xã hội trong nước, sự cạnh tranh không lành mạnh trên thương trường, biến động chung của nền kinh tế thế giới, chiến tranh, thiên tai, hỏa hoạn...
- Từ phía các tổ chức tài chính khác: Các tổ chức tài chính khác tác động đến ngân hàng thương mại cổ phần trên hai phương diện: thông tin và sự cạnh tranh. Hệ thống thông tin giữa các TCTD là một trong những nhân tố quan trọng nhằm đảm bảo cho hệ thống tài chính của một quốc gia vận hành ổn định và bền vững. Thông tin được chia sẻ giúp cho ngân hàng thương mại cổ phần hạn chế được vấn đề thông tin không cân xứng và đánh giá đúng hơn tình trạng tài chính và khả năng chi trả của khách hàng, do đó là giảm tỷ lệ nợ quá hạn. Ngược lại, nếu không dựa trên cơ sở đảm bảo an toàn cho toàn bộ hệ thống, cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại cổ phần với nhau và với các TCTD khác có thể dẫn tới nguy cơ nợ quá hạn tăng cao.
1.2.2. Tác động của nợ quá hạn trong hoạt động ngân hàng thương mại cổ phần tới nền kinh tế
Nợ quá hạn hình thành do nhiều nguyên nhân chủ quan cũng như khách
quan mà không một ngân hàng thương mại cổ phần nào có thể hoàn toàn kiềm chế được. Bởi vậy mà tỷ lệ nợ quá hạn trong tổng dư nợ ở một mức độ nhất định (dưới 5%) là được chấp nhận và không gây ra vấn đề lớn cho ngân hàng thương mại cổ phần và nền kinh tế. Tuy nhiên, nếu tỷ lệ nợ quá hạn vượt mức tiêu chuẩn sẽ đe dọa đến sự lành mạnh của hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần và toàn bộ nền kinh tế.
1.2.2.1. Tác động của nợ quá hạn trong hoạt động ngân hàng thương mại cổ phần tới bản thân ngân hàng thương mại cổ phần
- Nợ quá hạn ảnh hưởng tới khả năng thanh toán và kế hoạch kinh doanh của ngân hàng thương mại cổ phần: Thứ nhất, nợ quá hạn buộc ngân hàng thương mại cổ phần phải trích lập dự phòng rủi ro, do đó làm giảm khả năng cho vay của ngân hàng thương mại cổ phần. Thứ hai, các khoản nợ vay của khách hàng không được thanh toán đúng hạn gây ra sự thiếu hụt về lượng tiền so với dự tính của ngân hàng thương mại cổ phần, do đó tác động tới kế hoạch kinh doanh của ngân hàng thương mại cổ phần. Chẳng hạn ngân hàng thương mại cổ phần sẽ không thể có các món cho vay mới, thực hiện thanh toán lại đúng hạn cho các quỹ cho vay hoặc đáp ứng yêu cầu rút tiền tiết kiệm của khách hàng... trên cơ sở lượng tiền lẽ ra thu được.
- Nợ quá hạn làm tăng chi phí của ngân hàng thương mại cổ phần: như chi phí thời gian, chi phí dự phòng, chi phí cho các biện pháp để tăng cường khả năng thu hồi vốn, chi phí để phân tích rộng hơn các danh mục vốn đầu tư, chi phí pháp luật để tiến hành quyền truy đòi...
- Nợ quá hạn làm giảm khả năng thu lợi nhuận của ngân hàng thương mại cổ phần: Lợi nhuận của ngân hàng thương mại cổ phần được hình thành từ các khoản thu, trong đó thu lãi cho vay chiếm tỷ trọng lớn nhất. Nợ quá hạn không những làm giảm doanh thu dự kiến của ngân hàng thương mại cổ phần mà còn làm tăng chi phí, do đó lợi nhuận của ngân hàng thương mại cổ
phần càng giảm. Nợ quá hạn làm giảm tổng dư nợ và lợi nhuận trong giai đoạn này tiếp tục sẽ kéo theo làm giảm doanh thu và lợi nhuận của ngân hàng thương mại cổ phần trong giai đoạn sau.
- Tỷ lệ nợ quá hạn cao sẽ làm giảm uy tín của các NHTM, do đó giảm khả năng cạnh tranh của ngân hàng thương mại cổ phần. Việc huy động vốn của ngân hàng thương mại cổ phần gặp khó khăn do người gửi tiền không tin tưởng vào hiệu quả hoạt động và tính thanh khoản của ngân hàng thương mại cổ phần.
1.2.2.2. Tác động của nợ quá hạn tới toàn bộ hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần
- Tỷ lệ nợ quá hạn quá cao so với giới hạn an toàn của quốc tế sẽ gây khó khăn cho hệ thống NHTM trong nước trong quá trình hội nhập: Tình trạng nợ tồn đọng cao làm cho các ngân hàng thương mại cổ phần không thể công khai thực trạng tài chính của mình. Sự không minh bạch thông tin kéo dài làm giảm sút lòng tin của quốc tế, mất cơ hội cạnh tranh và hội nhập. Đồng thời đây cũng là cản trở rất lớn đối với việc tiếp cận các dự án cho vay nhằm hiện đại hóa hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần của các tổ chức tài chính quốc tế.
- Nếu tỷ lệ nợ quá hạn quá cao (mức độ rủi ro cao), hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần sẽ nhạy cảm với các biến động trên thị trường đặc biệt là các biến động bất ngờ của thị trường tài chính quốc tế do tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần thấp.
- Khi những dấu hiệu không lành mạnh của ngân hàng thương mại cổ phần trở nên rõ ràng, có thể có một phản ứng dây chuyền nguy hiểm khi người gửi tiền đồng loạt rút tiền khỏi hệ thống, gây sụp đổ hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần.
1.2.2.3. Tác động của nợ quá hạn trong hoạt động ngân hàng thương mại cổ phần tới tăng trưởng kinh tế
- Như đã phân tích, tỷ lệ nợ quá hạn cao sẽ làm tăng chi phí của ngân hàng thương mại cổ phần và do đó cũng làm tăng chi phí của món vay. Tới lượt nó, chí phí đi vay tăng phản ánh giá cả của đầu tư tăng dẫn đến việc hạn chế đầu tư trong nền kinh tế.
- Nợ quá hạn phản ảnh tính không hiệu quả của hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần trong việc phân bổ nguồn vốn đến những người có cơ hội đầu tư sinh lợi. Hậu quả là lợi ích kinh tế của cả ngân hàng thương mại cổ phần, người gửi tiền và người muốn đi vay đều không được tối đa hóa, nền kinh tế ở vào điểm chưa hiệu quả.
- Tỷ lệ nợ quá hạn cao dẫn đến sự thiếu tin tưởng của công chúng vào hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần, làm cho khả năng huy động nguồn tài chính trong dân cư kém, tỷ lệ tích lũy nội bộ thấp. Đây lại là nguyên nhân hạn chế tăng trưởng dài hạn và làm cho tăng trưởng có khuynh hướng lệ thuộc vào bên ngoài.
1.3. PHƯƠNG THỨC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN XỬ LÝ CÁC KHOẢN NỢ QUÁ HẠN PHÁT SINH
Trong xử lý các khoản nợ vay quá hạn các NHTM thường có hai lựa chọn tổng quát - đầu tư, khai thác hoặc phát mại, thanh lý - và trong mỗi sự lựa chọn có những cách làm khác nhau:
(i) Đầu tư, khai thác là một quá trình làm việc với người vay cho đến khi khoản cho vay được trả một phần hay toàn bộ và không dựa vào các công cụ pháp lý để yêu cầu khách hàng trả nợ.
(ii) Phát mại, thanh lý là buộc người vay tuân theo các điều khoản của hợp đồng cho vay, áp dụng và thực hiện tất cả biện pháp pháp lý để đạt mục tiêu thu hồi nợ.
Các yếu tố chính ảnh hưởng đến sự lựa chọn mà Ngân hàng thương mại cổ phần sẽ theo đuổi để xử lý các khoản nợ vay này nổi bật nhất là khó khăn trong việc thu hồi nợ và tổn thất có thể xảy ra đối với khoản cho vay. Trong trường hợp này, Ngân hàng thương mại cổ phần phải áp dụng hình thức thu đòi bắt buộc theo luật. Bên cạnh đó, Ngân hàng thương mại cổ phần cũng sẽ xem xét đến các yếu tố khác như thái độ hợp tác, thiện chí của người vay đối với các khoản nợ để chọn phương pháp thích hợp. Trong việc xử lý ngoài phạm vi của Tòa án, sự sắp xếp các việc phải làm cần được những người liên quan chấp nhận.
Có thể nói, việc xử lý những khoản cho vay xấu là một nghệ thuật và khó nói được các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định của ngân hàng thương mại cổ phần đến mức nào trong việc xử lý các khoản nợ vay này. Cụ thể:
Trường hợp ngân hàng thương mại cổ phần lựa chọn phương pháp đầu tư, khai thác: người vay được phép tự khắc phục các khó khăn tài chính và hoàn trả các khoản nợ cho ngân hàng thương mại cổ phần càng nhanh càng tốt. Phương pháp này được mô tả như một chương trình phục hồi áp đặt lên người vay, với sự thỏa thuận và cộng tác của họ. Theo đó, ngân hàng thương mại cổ phần sẽ áp dụng các biện pháp trong phù hợp các tình huống đặc biệt như: (i) Ngân hàng thương mại cổ phần sẽ có lời khuyên nhằm tác động đến khả năng tạo ra và thu lợi tức của người vay; (ii) gia hạn hoặc điều chỉnh hợp đồng cho vay để giảm bớt quy mô hoàn trả; (iii) cấp phát thêm vốn nhằm tạo cho người vay có được vị thế tài chính mạnh hơn, (iv) ngân hàng thương mại cổ phần nắm phần chủ động trong HĐKD hay thậm chí đảm nhận việc kinh doanh và điều hành doanh nghiệp cho đến khi đảm bảo rằng khoản nợ vay đã được hoàn trả.
Trường hợp ngân hàng thương mại cổ phần lựa chọn phương pháp phát mại, thanh lý: nếu ngân hàng thương mại cổ phần thấy rõ là việc tổ chức