Khái Quát Chế Độ Hôn Sản Trong Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam Qua Các Thời Kỳ

gọi là bộ luật Napoleon. Là một sản phẩm của quá trình pháp điển hóa giữa những qui định mang tính chuẩn mực trong pháp luật La mã và một số tập quán đương thời, BLDS Pháp thường được xem là khuôn vàng thước ngọc để các quốc gia khác học tập khi xây dựng dân luật. Cho đến ngày nay, chúng ta vẫn không thể phủ nhận tính mẫu mực của các qui định trong dân luật Pháp. BLDS Pháp dành riêng thiên V quyển thứ 3 để qui định về hôn ước và các chế độ tài sản vợ chồng. Thiên thứ V được mở đầu bằng Điều 1378: “Pháp luật không điều chỉnh quan hệ tài sản giữa vợ và chồng nếu giữa vợ chồng đã có thỏa thuận riêng mà vợ chồng cho là phù hợp và không trái với thuần phong mĩ tục hoặc với các qui định sau đây” [40, tr109]. Vậy nên khi vợ chồng lập hôn ước, chế độ tài sản của vợ chồng sẽ được điều chỉnh bằng hôn ước. Vợ chồng có thể tự do thỏa thuận về vấn đề tài sản nhưng nó phải tuân theo pháp luật cả về nội dung và thủ tục.

Ngoài ra, là một quốc gia thuộc khu vực châu Á, trong các quy định của mình Nhật Bản cũng đã có riêng một văn bản pháp luật điều chỉnh về hình thức của hôn ước và vấn đề đăng kí hôn ước. Nội dung của của hôn ước được qui định trong BLDS (Civil Code) Điều 755 BLDS Nhật Bản ghi nhận quyền được lập hôn ước của các cặp vợ chồng: các quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng sẽ được tuân theo các qui định dưới đây nếu như vợ chồng không kí vào một hợp đồng qui định trước về tài sản của họ trước khi đăng kí kết hôn. Điều 756 BLDS Nhật Bản quy định: Nếu vợ hoặc chồng trước khi đăng ký kết hôn không ký một hợp đồng nào nhằm quy định khác đi tài sản của mình , thì quan hệ tài sản của họ được điều chỉnh bởi các quy định của tiểu mục II (tiểu mục quy định chế độ tài sản pháp định). Luật cũng qui định: Nếu vợ chồng có một thỏa thuận về tài sản mà trong đó qui định khác với chế độ tài sản pháp định thì hôn ước này không được chống lại người thừa kế hàng thứ nhất của vợ hoặc chồng hoặc người thứ ba trừ khi nó được đăng kí trước khi đăng kí kết hôn.

Bên cạnh đó, quan niệm đề cao quyền tự do, tự định đoạt về tài sản của vợ chồng cũng được ghi nhận và thể hiện trong các quy định pháp luật của Thái Lan. Mặc dù Thái Lan là một đất nước phương Đông, theo đạo Phật, nhưng với khả năng dễ tiếp nhận và thích nghi thì hôn ước tồn tại trong pháp luật Thái Lan cũng không phải là điều khó hiểu. Hôn ước được qui định trong phần tài sản vợ chồng trong BLDS và thương mại Thái Lan (các Điều từ 1465 đến 1493). Điều 1465 của BLDS và thương mại Thái Lan qui định: Trong trường hợp vợ chồng trước khi kết hôn không có thỏa thuận đặc biệt về tài sản của họ (hôn ước) thì quan hệ tài sản của họ sẽ được điều chỉnh bởi những qui định chung của chương này. Hôn ước sẽ vô hiệu nếu có bất

cứ điều khoản nào trái với trật tự công hoặc đạo đức xã hội hoặc qui định rằng quan hệ tài sản của họ sẽ được điều chỉnh bởi luật nước ngoài. Như vậy về nội dung, ngoài những đặc điểm chung như hôn ước ở nhiều nước, hôn ước ở Thái Lan còn có thêm điều kiện về luật áp dụng điều chỉnh, trong đó ở một số quốc gia đã cho phép vợ chồng được chọn luật áp dụng là luật nước ngoài.

Hôn ước chỉ phát sinh hiệu lực giữa những người có quan hệ hôn nhân hợp pháp và góp phần tạo điều kiện cho vợ chồng tự chủ hơn trong việc tổ chức tài chính, hoạch định tương lai. Mặc dù không hoàn toàn nhưng hôn ước và cả chế độ hôn sản ước định cũng xuất phát từ lợi ích chung của gia đình và có mục đích góp phần vào sự bền vững của hạnh phúc gia đình.

Về hình thức, hôn ước phải được lập bằng văn bản có chữ ký của hai bên nam nữ sắp thành vợ chồng. Pháp luật của nhiều nước thường quy định hôn ước phải được công chứng và cơ quan có thẩm quyền xác nhận tính hợp pháp (bằng hình thức công chứng và đăng ký hôn ước cùng thời điểm đăng ký kết hôn).

Hôn ước là căn cứ pháp lý để bản vệ quyền tài sản và quyền nhân thân của vợ chồng, đồng thời cũng là cơ sở đảm bảo vợ chồng thực thi đầy đủ các nghĩa vụ về tài sản của mình với gia đình, xã hội. Xuất phát từ tính ổn định, lâu dài và bên vững của gia đình yêu cầu các điều khoản được quy định trong hôn ước theo quan điểm lập pháp của các nước là bất biến, không thể thay đổi được. Điều 1395 BLDS Pháp năm 1804 qui định: Hôn ước không thể thay đổi sau khi đã kết hôn. Điều 761 BLDS Nhật Bản cũng có nội dung quy định hôn ước không thể thay đổi trong thời kì hôn nhân trừ khi vợ hoặc chồng là người quản lí tài sản mà có hành vi phá tán tài sản và để thay đổi hôn ước, các bên phải có đệ đơn lên tòa án. Và tại Thái Lan, Điều 1467 BLDS và Thương mại Thái Lan cũng có qui định sau khi kết hôn hôn ước không thể sửa đổi trừ khi được sự chấp thuận của tòa án có thẩm quyền, và khi có quyết định cuối cùng về việc sửa đổi hay hủy bỏ hôn ước, tòa án phải thông báo với nơi đăng kí kết hôn về vấn đề đó. Mặc dù được sửa đổi hoặc hủy bỏ bởi tòa án nhưng một số điều khoản của hôn ước sẽ không có hiệu lực với người thứ ba có thiện chí.

Có thể thấy trong các quy định của các nước, về cơ bản hôn ước có tính ổn định cao và không thể thay đổi sau khi kết hôn. Tuy nhiên, nguyên tắc hôn ước không thể thay đổi trong thời kỳ hôn nhân có thể gây ra những ảnh hưởng không tốt đến lợi ích của gia đình, của bản thân vợ, chồng hay lợi ích của người thứ ba có quan hệ giao dịch với vợ chồng khi vợ chồng đã chọn nhầm một chế độ tài sản đã hoàn toàn không phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh gia đình, điều kiện nghề nghiệp…Để khắc phục hạn

chế trên, hiện nay một số nước đã thừa nhận các thỏa thuận trong hôn ước có thể được thay đổi trong thời kỳ hôn nhân với những điều kiện pháp lý chặt chẽ. Điều 1397 BLDS Cộng hòa Pháp quy định: Sau hai năm áp dụng chế độ tài sản trong hôn nhân theo thỏa thuận hoặc luật định, hai vợ chồng có thể, vì lợi ích của gia đình, xin sửa đổi hoặc thay đổi hoàn toàn chế độ tài sản trong hôn nhân bằng một chứng thư có chứng thực của công chứng viên và được Tòa án nơi cư trú phê chuẩn. Bộ Luật Dân sự Nhật Bản không qui định cụ thể về vấn đề này, nhưng theo Điều 758, 759: Tài sản thuộc sở hữu chung có thể được thay đổi hoặc phân chia trong trường hợp vợ chồng có thoả thuận hoặc trong trường hợp vợ, chồng quản lý tài sản của nhau, nhưng người đó thực hiện quản lý tài sản không tốt và người kia đã yêu cầu Toà án HN&GĐ tước bỏ việc quản lý nói trên. Việc thay đổi hoặc phân chia tài sản chung không được sử dụng để chống lại người thừa kế hợp pháp của chồng hoặc vợ, trừ khi việc này đã được đăng ký. Như vậy, theo pháp luật Nhật Bản, những căn cứ xác định tài sản của vợ chồng được qui định trong hôn ước cũng có thể được thay đổi cho phù hợp với thực tế tạo lập, chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản giữa vợ và chồng.

Như vậy, theo chế độ hôn sản ước định thì hai bên vợ, chồng có quyền tự do thỏa thuận các vấn đề liên quan đến tài sản của mình trong thời kỳ hôn nhân. Việc thỏa thuận phải được lập bằng văn bản và lập trước khi kết hôn. Mục đích của việc thỏa thuận chế độ hôn sản vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân nhằm bảo đảm quyền tự do, tự định đoạt của công dân, giúp cơ quan tư pháp giải quyết tranh chấp dễ dàng và thuận tiện, giảm thiểu các tranh chấp trong phát sinh thực tế nhưng vẫn luôn đảm bảo đề cao lợi ích của gia đình và các thành viên trong gia đình.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.

Tại Việt Nam, Luật HN&GĐ năm 2014 cũng đã có những quy định và ghi nhận thêm một chế độ hôn sản mới ngoài chế độ hôn sản pháp định là chế độ hôn sản theo thỏa thuận.. Cụ thể, khoản 1 Điều 28 Luật HN&GĐ năm 2014 của nước ta quy định: “Vợ chồng có quyền lựa chọn áp dụng chế độ tài sản luật định hoặc chế độ tài sản theo thỏa thuận” [38, khoản 1 Điều 28].

Có thể nói rằng, trong bất kỳ thời đại nào, ở bất kỳ chế độ chính trị hay nền kinh tế nào vấn đề tài sản của vợ chồng luôn là vấn đề được xã hội và các nhà làm luật quan tâm. Tuy nhiên dù lựa chọn một chế độ hôn sản pháp định hay lựa chọn cả hai loại chế độ hôn sản pháp định và thỏa thuận thì cũng có những ưu điểm và những hạn chế nhất định. Mỗi quốc gia căn cứ vào các điều kiện kinh tế xã hội, các phong tục, tập quán và những truyền thống văn hóa tốt đẹp của mình để lựa chọn áp dụng một chế độ hôn sản phù hợp. Tuy nhiên, xã hội luôn thay đổi theo những chiều hướng

Chế độ hôn sản trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 1697215839 - 4

khác nhau, một xu hướng đang diễn ra phổ biến và nhanh chóng là xu thế toàn cầu hóa, nhu cầu hợp tác và phát triển mọi mặt dẫn đến nhu cầu thỏa thuận về các vấn đề liên quan đến tài sản của vợ chồng ngày càng tăng, các quy định cũ trước đó không đáp ứng được nhu cầu giải quyết các tranh chấp, do đó việc lựa chọn và ghi nhận chế độ hôn sản theo thỏa thuận như là một xu hướng và tất yếu khách quan của sự phát triển.

1.3. Khái quát chế độ hôn sản trong hệ thống pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ

1.3.1. Chế độ hôn sản trong pháp luật thời kỳ phong kiến

Hệ thống pháp luật tiêu biểu thời kỳ này có thể kể đến Quốc triều hình luật (QTHL, còn gọi là Luật Hồng Đức) được ban hành dưới triều Lê (1470 – 1497) và Hoàng Việt luật lệ (HVLL, còn gọi là Luật Gia Long) ban hành dưới triều Nguyễn (1812). Cả hai văn bản đều có các quy định về HN&GĐ, nhưng tuyệt nhiên chế độ hôn sản của vợ chồng không được quy định như một chế định riêng rẽ và cụ thể. Các quy định của pháp luật không rõ ràng, không có điều khoản nào đề cập đến vấn đề hôn sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, mà chỉ dự liệu một số trường hợp chia tài sản của vợ khồng khi một bên vợ, chồng chết trước (Điều 374, 375, 376). Hoàng Việt luật lệ do chép nguyên văn của nhà Thanh nên cũng không có quy định nào vấn đề tài sản của vợ chồng mà chỉ quy định các vấn đề hôn nhân (Điều 94 quy định về vấn đề thoái hôn).

Qua nghiên cứu các quy định liên quan đến vấn đề tài hôn sản trong QTHL và HVLL cũng như các tục lệ được thực hiện trong xã hội phong kiến, có thể thấy rằng, chế độ hôn sản của vợ chồng trong thời kỳ phong kiến là chế độ cộng đồng toàn sản pháp định. Chế độ tài sản này được áp dụng như là duy nhất cho các quan hệ vợ chồng. Loại chế độ hôn sản ước định (hôn ước) được áp dụng cho các cặp vợ chồng thời nay tại nhiều nước tư bản chủ nghĩa thời kỳ này không hề được biết tới.

Theo đó, toàn bộ tài sản vợ chồng có được trước khi kế hôn hoặc tạo dựng được trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc khối tài sản chung của vợ chồng, bao gồm các tài sản là động sản (QTHL gọi là phù vật) và các bất động sản (điền sản). Trong đó, điền sản được coi là tài sản chủ yếu, chiếm vị trí quan trọng trong khối tài sản chung của vợ chồng. Với quan điểm coi điền sản là chính yếu, QTHL đã quy định thành phần khối tài sản chung của vợ chồng gồm ba loại: Tài sản của chồng được thừa kế từ gia đình chồng (Phu gia điền sản); Tài sản của vợ được thừa kế từ gia đình vợ (Thê

gia điền sản) và những tài sản mà vợ chồng làm ra trong thời kỳ hôn nhân (Tần tảo điền sản).

Tất cả tài sản này được đặt dưới sự quản lý của người chồng và chỉ được chia khi một bên vợ, chồng chết trước mà giữa họ không có con. Tuy bị ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng Nho giáo trọng nam khinh nữ nhưng pháp luật triều Lê cũng đã giành cho người vợ quyền được tham gia quản lý tài sản chung cùng chồng. Các văn cổ tự lập dưới thời Lê về việc định đoạt tài sản như là bán, tặng, cho, cầm cố phải lập di chúc đều do cả hai vợ chồng thực hiện và cùng ký vào văn tự đó được quy định tại các Điều 374, 375, 376. Người chồng, với tư cách là chủ gia đình có quyền quyết định tài sản gia đình nhưng phải phù hợp với lợi ích của gia đình nếu làm tổn hại đến thì người vợ có quyền phản đối. Người vợ được tự do định đoạt tài sản chung sử dụng trong các trường hợp phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của gia đình và sự đồng ý của người chồng trong trường hợp này là mặc nhiên. Đây là quy định không được ghi nhận trong HVLL, do sao chép nguyên văn của Luật nhà Thanh nên trong HVLL người vợ bị coi là vô năng lực. Tuy nhiên, trong QTHL vợ có quyền bình đẳng về tài sản với chồng, nhưng chỉ là đối với vợ cả (chính thất). Còn đối với vợ lẽ thì pháp luật không có quy định gì, qua đây ta có thể hiểu rằng giữa chồng và vợ lẽ không hề tồn tại tài sản chung.

1.3.2. Chế độ hôn sản trong pháp luật thời kỳ Pháp thuộc

Pháp thuộc là một giai đoạn trong lịch sử Việt Nam kéo dài hơn tám mươi năm, bắt đầu tư khi Pháp ép Triều đình Huế chấp nhận Hòa ước Giáp Thân (1884) cho đến khi Pháp mất quyền cai trị ở Đông Dương. Với chính sách chia để trị, Pháp đã chia Việt Nam thành 3 xứ riêng lẻ và cho ban hành, áp dụng tương ứng với ba bộ luật riêng điều chỉnh các quan hệ HN&GĐ, trong đó có chế độ tài sản của vợ chồng.

- Tại Bắc kỳ áp dụng BLDS năm 1931 (DLBK)

- Ở Trung kỳ áp dụng BLDS năm 1936 (DLTK)

- Và ở Nam kỳ cho ban hành tập Dân luật giản yếu năm 1883 (DLGYNK)

Nhìn chung, những quy định của pháp luật thời kỳ này nhằm điều chỉnh các quan hệ HN&GĐ đã mang những sắc thái mới so với cổ luật thời phong kiến Việt Nam. Bên cạnh những tục lệ tồn tại lâu đời trong xã hội phong kiến, nhà làm luật đã phỏng theo BLDS Pháp (1804) khi quy định về chế độ HN&GĐ cũng như chế độ hôn sản của vợ chồng. Quan hệ giữa vợ và chồng trong pháp luật thời kỳ này vẫn thực hiện nguyên tắc bất bình đẳng, người vợ phụ thuộc người chồng về mọi phương diện, người vợ ở đâu, làm gì phải được chồng ưng thuận, cho phép.

Chế độ hôn sản áp dụng ở Nam kỳ trên nguyên tắc sau:

Người vợ không có tài sản riêng, do đó không thể có cộng đồng tài sản giữa vợ và chồng. Tất cả các tài sản trong gia đình đều thuộc quyền sở hữu và quản lý của người chồng trong thời kỳ hôn nhân cũng như sau khi vợ chết. Trong trường hợp người vợ chết thì người chồng là chủ sở hữu đối với toàn bộ tài sản của gia đình do hiệu lực của hôn nhân chứ không phải do hưởng gia tài của người vợ; nhưng nếu người chồng chết trước thì người vợ chỉ có quyền hưởng dụng, thu lợi trên toàn bộ tài sản gia đình khi còn ở góa.

Tại Bắc kỳ và Trung kỳ, do ảnh hưởng của BLDS Pháp (1804) thể hiện trong việc nhà làm luật dự liệu chế độ hôn sản ước định và áp dụng nguyên tắc bất di bất dịch về chế độ tài sản của vợ chồng theo hôn khế.

Do được ban hành sau nên DLTK đã có những sửa đổi cho phù hợp hơn so với DLBK. Tại Điều 104 bộ DLBK quy định: “Về đường tài sản, pháp luât chỉ can thiệp đến đoàn thể vợ chồng là khi nào vợ chồng không có tùy ý lập ước riêng với nhau mà thôi, miễn là ước riêng đấy không trái với phong tục và không được trái với quyền lợi người chồng là người chủ trương trong đoàn thể” và phàm tư ước về tài sản của vợ chồng khi đã làm giá thú thì không được thay đổi gì nữa (Điều 105 DLBK). Quy định chế độ hôn sản ước định này lần đầu tiên được dự liệu trong hệ thống pháp luật Việt Nam theo quan điểm của các nhà lập pháp tư sản, nhưng không phù hợp với tục lệ và truyền thống gia đình Việt Nam, nên chế độ hôn sản ước định này trong DLBK và DLTK không được các cặp vợ chồng thỏa thuận lựa chọn.

Trường hợp vợ chồng không thỏa thuận lập hôn khế khi kết lập giá thú, DLBK và DLTK đều dự liệu một chế độ hôn sản pháp định cho họ theo chế độ cộng đồng toàn sản. Theo chế độ này, tất cả các của cải và hoa lợi của chồng cũng như của vợ hợp thành một khối tài sản chung vợ chồng. Tại các điều 106, 107 DLBK và Điều 105 DLTK quy định: “Nếu hai vợ chồng không có tư ước với nhau thì cứ theo lệ hợp nhất tài sản, nghĩa là bao nhiêu lợi tức tài sản của chồng và của vợ hợp lại làm một mà chung nhau”

Cả hai bộ DLBK và DLTK đều dự liệu thành phần khối hôn sản của vợ chồng bao gồm: Kỷ phần hay phần góp của chồng; Kỷ phần hay phần góp của vợ và của chung của vợ chồng. Đồng thời còn dự liệu khối cộng đồng (tài sản chung của vợ chồng) phải bảo đảm cho cuộc sống chung của gia đình cũng như các món nợ vợ chồng vay cho lợi ích gia đình (thành phần tiêu sản) …

Theo các điều 106, 107 DLBK và các điều 104, 105 DLTK thì chế độ hôn sản pháp định được áp dụng cho các cặp vợ chồng không lập hôn khế trước khi kết hôn là chế độ cộng đồng toàn sản, với thành phần tài sản chung bao gồm: Các tài sản do vợ chồng có được trong thời kỳ hôn nhân; Tài sản do vợ chồng làm việc mà kiếm ra và lợi tức của toàn bộ tài sản trong gia đình, không phân biệt lợi tức đó thu được từ tài sản riêng hay tài sản chung

Theo Điều 111 DLBK và Điều 109 DLTK dự liệu khối tài sản cộng đồng phải gánh chịu các khoản nợ gồm: Những khoản nợ của vợ chồng đã vay trước khi kết hôn; Những khoản nợ của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; Những khoản nợ do vợ vay với tư cách đại diện cho đoàn thể vợ chồng và các khoản nợ vay do sự ưng thuận của chồng; Những khoản nợ do vợ ký kết khi hành nghề buôn bán hay làm công nghệ một cách hợp lệ; Những khoản nợ do hành vi phạm pháp của vợ gây ra.

Đối với việc quản lý, sử dụng và định đoạt tài sản gia đình, DLBK và DLTK đều dự liệu về việc cần có sự phân biệt về quyền hạn của người vợ và người chồng theo từng trường hợp cụ thể:

- Việc vợ chồng có thể tự mình thỏa thuận.

Theo Điều 100, Điều 111 DLBK và Điều 98, Điều 109 DLTK thì đối với những nhu cầu chung của gia đình (như ăn, ở, chữa bệnh …), vợ hoặc chồng đều có thể đại diện cho gia đình để giao dịch và khối tài sản cộng đồng được bảo đảm cho các giao dịch vợ chồng ký kết với người khác.

- Việc phải do cả hai vợ chồng cùng thực hiện.

Theo Điều 109DLBK và Điều 107 DLTK thì ngoài việc quản lý, thường vợ chồng muốn định đoạt tài sản chung phải cùng nhau thỏa thuận, sự đồng ý có thể là công nhiện hoặc mặc nhiên.

- Việc một mình chồng làm được, còn vợ phải xin phép chồng.

Theo Điều 98 DLBK và Điều 104 DLTK thì với các việc như lập hội, vay mượn, đi kiện, thuê mướn…người chồng có quyền tự mình thực hiện; người vợ chỉ được thực hiện nếu người chồng cho phép, sự cho phép của người chồng có thể là công nhiên hoặc mặc nhiên.

- Đặc quyền của người chồng khi định đoạt tài sản chung của vợ chồng.

Điều 109 DLBK quy định người chồng có thể định đoạt tài sản chung không cần vợ phải bằng lòng cũng được, miễn là dùng vào việc có lợi ích cho gia đình, trừ bất động sản là tài sản riêng của người vợ.

Như vậy, trên cơ sở phân định quyền hạn của vợ chồng trong việc thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản chung luật định có thể thấy sự bất công, bất bình đẳng giữa người vợ và chồng trong gia đình được duy trì và áp dụng trong xã hội thực dân và phong kiến. Người chồng được coi là chúa tể, là chủ sở hữu độc tài đối với tài sản của gia đình, luôn được quyền tự mình định đoạt, quản lý tài sản mà không cần phải được sự đồng ý hay xin phép của người vợ. Trong khi đó, người vợ chỉ được đại diện trong những nhu cầu chung của gia đình; việc định đoạt tài sản có giá trị lớn phải xin phép và được sự đồng ý của người chồng.

Về việc chia tài sản chung của vợ chồng, pháp luật thời kỳ pháp thuộc đã dự liệu một vài trường hợp và nguyên tắc phân chia. Tuy nhiên, không giống như BLDS Pháp (1804) dự liệu khi vợ chồng chết thì chế độ cộng đồng tài sản chấm dứt và được thanh toán; các án lệ ở Nam kỳ vẫn áp dụng quy định chế độ cộng đồng tiếp tục. Theo quy định tại Điều 113 DLBK và Điều 111 DLTK, nếu người chồng chết mà người vợ không tái giá thì tài sản chung vẫn để nguyên và người vợ được quản lý tài sản; nếu người vợ chết thì người chồng là chủ sở hữu tất cả các tài sản, kể cả kỷ phần của vợ. Quy định này cho thấy sự bất công trong các quy định của pháp luật đối với quyền lợi của người vợ.

Về chia tài sản khi vợ, chồng ly hôn, DLBK và DLTK xác định khối cộng đồng tài sản sẽ được phân chia. Về cách thức và điều kiện phân chia, nếu vợ chồng có lập hôn khế khi kết hôn thì tài sản chia theo hôn khế. Nếu vợ, chồng không có hôn khế thì áp dụng quy định của pháp luật và được phân theo hai trường hợp có con và không có con.

Trường hợp vợ chồng không có con, người vợ được quyền lấy lại kỷ phần tài sản của mình bằng hiện vật hiện có. Nếu tài sản riêng của vợ đã được bán đi để chi dùng cho gia đình hoặc cho riêng người chồng thì người vợ không được đòi lại. Sau khi đã trả lại kỷ phần tài sản cho vợ, chồng phần tài sản chung còn lại sẽ được chia đôi cho vợ, chồng mỗi người một nửa.

Trường hợp vợ chồng có con chung, người vợ không được thu hồi toàn bộ tài sản riêng của mình, những tài sản ấy sẽ thuộc tài sản chung và do người chồng quản lý, để dành cho con. DLBK và DLTT đã ấn định khi vợ chồng ly hôn mà có con chung với nhau thì sẽ không thanh toán tài sản chung. Theo Điều 112 DLBK dự liệu thì khi ly hôn mà vợ chồng có con chung thì người vợ được hưởng một phần của chung, phần được hưởng nảy nhiều hay ít do Tòa phân định trên cơ sở đóng góp của người vợ. Trong khi đó, Điều 110 DLTK dự liệu kỷ phần của người vợ sẽ là 1/3 số

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 13/10/2023