Ngân hàng cần thiết phải đưa ra chính sách kiểm tra chặt chẽ trong, trước và sau khi cho vay đối với doanh nghiệp. Bên cạnh đó, xây dựng quy trình tín dụng đối với doanh nghiệp dựa trên việc phân chia các cấp phê duyệt sẽ đảm bảo các quyết định được đưa ra một cách thận trọng, hiệu quả. Ngân hàng cũng cần xây dựng một quy trình thu nợ gốc, lãi, và các khoản phí khác phù hợp với điều khoản trả nợ. Cần thiết phải có các quy định giải quyết các vấn đề của các khoản vay không được thực hiện và cơ chế thực hiện quyền của chủ nợ trong trường hợp việc cho vay bị tổn thất. Hệ thống báo cáo của ngân hàng phải thông báo kịp thời, chính xác trạng thái tín dụng của doanh nghiệp, đồng thời duy trì việc thu thập thông tin chi tiết kịp thời về doanh nghiệp vay để bảo đảm liên tục đánh giá được trạng thái rủi ro.
Hoạt động tín dụng của ngân hàng rất phong phú, đa dạng nhưng đồng thời cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro. Xây dựng một chính sách tín dụng nhất quán và hợp lý, phù hợp với đặc điểm của từng ngân hàng sẽ giúp phát huy được các thế mạnh của mỗi ngân hàng, từ đó giúp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng, kiểm soát rủi ro tín dụng ngân hàng.
Các quy chế, chính sách tín dụng hiện đại thường quy định tổng dư nợ một ngân hàng được phép đầu tư, cho vay hoặc cung cấp tín dụng khác đối với một doanh nghiệp, một nhóm pháp nhân có liên quan nào vượt hơn một tỷ lệ nhất định tính trên tổng số vốn và dự phòng của ngân hàng đó. Trong phạm vi này, các nhà quản lý ngân hàng có thể kiểm soát được rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp của cả ngành ngân hàng và từng ngân hàng để bảo đảm quyền lợi cho người gửi tiền và ngăn chặn các tình huống có thể gây ra rủi ro cho cả hệ thống NHTM.
Hầu hết các quốc gia đều hạn chế mức tín dụng đối với một doanh nghiệp trong khoảng từ 20-25% tổng vốn, dù một số nơi, tỷ lệ này thể lên tới 30-40%. Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng khuyến nghị nên áp dụng tỷ lệ tối đa là 25%, có thể giảm xuống 10% khi thực tế cho phép. Mức ngưỡng phải báo cáo cho cơ quan quản lý chức năng thường dược đặt thấp hơn mức tỷ lệ tối đa. Khi đó, các nhà quản lý có thể quan tâm đặc biệt đến những khoản vay vượt trên tỷ lệ ngưỡng và yêu cầu các ngân hàng có biện pháp phòng ngừa trước khi việc tập trung phòng ngừa rủi ro trở thành nguy cơ. Trong bất kỳ trường hợp nào, các ngân hàng do đặc trưng hoạt động, luôn phải chịu rủi ro ngành nghề. Do vậy, mỗi NHTM cần có chính sách giới hạn mức dư nợ cho vay cao nhất đối với ngành nghề kinh tế hoặc cho một khu vực đại lý hẹp. Ngoài ra, mỗi NHTM cần phải xây dựng hệ thống kiểm soát các rủi ro này một cách tốt nhất và đánh giá tác động do sự thay đổi theo chiều hướng xấu của chất lượng các khoản vay và cân đối lỗ lãi. Các ngân hàng cũng cần phải có một cơ chế tổ chức để giải quyết các rủi ro
tăng lên. Ngoài ra, ngân hàng cần trích lập dự phòng rủi ro phù hợp với tình hình dư nợ tại ngân hàng mình. Tỷ lệ trích lập quỹ dự phòng rủi ro thường được quy định ở mỗi nước khác nhau. Tỷ lệ này thường được đưa ra trên cơ sở con số thống kế hiện tại về mức độ rủi ro của các ngân hàng. Ở những nước có hệ thống luật pháp cho việc quản lý các khoản nợ phát triển thì áp dụng tỷ lệ trích lập thấp hơn. Điển hình như ở Mỹ thì quy định mức trích lập khoảng 10% đối với các khoản tín dụng không đủ tiêu chuẩn, 50% đối với các khoản nợ khó đòi và 100% đối với những khoản tín dụng thua lỗ. Còn ở những nước đang phát triển như Thái Lan thì mức độ trích vào khoảng 20- 25% đối với khoản nợ không đủ tiêu chuẩn, 50-75% đối với khoản nợ khó đòi và 100% đối với khoản nợ mất mát. Tại Việt Nam, trích lập dự phòng cụ thể đối với 5 nhóm nợ (Nhóm 1- nhóm 5).
Việc tổ chức bộ máy quản trị rủi ro trong hoạt động ngân hàng cũng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến công tác quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp bởi nếu một mô hình quản trị rủi ro thiếu khoa học, lạc hậu sẽ dẫn tới những rủi ro tiềm ẩn lớn nhất là trong hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp của các NHTM.
(2) Nhân tố cán bộ NHTM: Trong mọi vấn đề, nhân tố con người bao giờ cũng là nhân tố quan trọng có tính chất quyết định. Do vậy, công tác quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp tại NHTM rất cần thiết phải đặt nhân tố con người bao gồm: cán bộ ngân hàng và doanh nghiệp vay lên hàng đầu. Muốn vậy, việc tuyển dụng cán bộ vào làm việc tại ngân hàng phải đòi hỏi công khai và minh bạch. Cán bộ được tuyển dụng phải bảo đảm có trình độ và đạo đức.
Việc đánh giá doanh nghiệp vay vốn cũng hết sức quan trọng. NHTM có thể sử dụng biện pháp chấm điểm khách hàng và phân loại tín dụng. Đó là quá trình trong đó xác định cấp độ rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp, một món vay hoặc một loại tài sản dược doanh nghiệp dùng để thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Nói chung, mọi doanh nghiệp vay, mọi khoản vay đều phải được đánh giá phân loại kỹ càng.
Có thể bạn quan tâm!
- Các Tiêu Chí Đánh Giá Rủi Ro Tín Dụng Đối Với Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại
- Chiều Ảnh Hưởng Của Các Nhân Tố Đến Rủi Ro Tín Dụng Đối Với Doanh Nghiệp Theo Các Nghiên Cứu Trước Đây
- Chuẩn Mực Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Của Ủy Ban Basel
- Kinh Nghiệm Của Một Số Ngân Hàng Khác Trên Thế Giới
- Các Chỉ Tiêu Về Tổng Tài Sản, Vốn Tự Có Và Vốn Lưu Động
- Cơ Cấu Cho Vay Doanh Nghiệp Theo Ngành Nghề Kinh Doanh
Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.
(3) Chấm điểm doanh nghiệp và phân loại tín dụng đối với doanh nghiệp là một công cụ quan trọng của quản trị rủi ro tín dụng. Chấm điểm doanh nghiệp là quá trình xếp doanh nghiệp theo các cấp độ khác nhau dựa trên các yếu tố định tính và định lượng. Việc chấm điểm doanh nghiệp sẽ giúp NHTM sàng lọc được những khách hàng không tốt, từ đó có những chính sách cụ thể đối với mỗi loại doanh nghiệp (chính sách cấp tín dụng, chính sách lãi suất…)
Doanh nghiệp vay hoặc các khoản vay được chấm điểm, phân loại tại thời điểm gốc và cần được đánh giá, phân loại lại (theo mức độ rủi ro) sau một thời gian. Việc
đánh giá lại này dựa vào thực tế hoạt động và sử dụng vốn tín dụng của người được cấp tín dụng.
(4) Nhân tố công nghệ: Hiện nay, các ngân hàng đều đã trang bị hệ thống thông tin hiện đại để xây dựng các mối quan hệ trực tiếp với doanh nghiệp, online trực tuyến với các giao dịch. Trong xu thế toàn cầu hóa và sự cạnh tranh trong lĩnh vực tài chính ngân hàng ngày càng trở nên khốc liệt, chúng ta càng thấy vai trò của công nghệ đối với hoạt động kinh doanh cũng như năng lực cạnh tranh của từng ngân hàng. Công nghệ sẽ thể hiện rất rõ giúp ngân hàng trong lĩnh vực quản trị, trong việc mở rộng sản phẩm dịch vụ, thông qua đó, ngày càng đáp ứng được các nhu cầu khắt khe của hệ thống ngân hàng. Ngoài ra công nghệ cũng cho phép ngân hàng quản trị rủi ro tốt hơn, từ đó đưa ra các công cụ hỗ trợ để giúp ngân hàng đưa ra những quyết định đúng đắn.
Các nhân tố trên vừa có tính độc lập tương đối, vừa quan hệ chặt chẽ và chi phối lẫn nhau, có thể làm cho hoạt động của NHTM giảm thiểu rủi ro, nâng cao chất lượng tín dụng…
1.4. Kinh nghiệm quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp ở một số nước trên Thế giới và bài học kinh nghiệm cho Ngân hàng thương mại Việt Nam
1.4.1. Kinh nghiệm của Ngân hàng Thái Lan
Sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997-1998, hệ thống ngân hàng Thái Lan bị chao đảo, nhiều NHTM bị phá sản hoặc phải sát nhập. Tình hình đó, buộc các NHTM phải xem lại toàn bộ chính sách, cách thức, quy trình trong hoạt động ngân hàng, đặc biệt là lĩnh vực tín dụng, nhằm giảm thiểu rủi ro. Vì vậy, một loạt các thay đổi cơ bản trong quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp đã được các ngân hàng Thái Lan triển khai nhanh chóng và triệt để. Một số nét đặc trưng phải kể đến đó là:
Thứ nhất, tách bạch, phân công rõ chức năng các bộ phận và tuân thủ các khâu trong quy trình giải quyết các khoản vay đối với doanh nghiệp. Cụ thể các khâu của quy trình tín dụng đối với khách hàng vay là doanh nghiệp: tiếp xúc khách hàng; Phân tích tín dụng; Thẩm định tín dụng; Phân tích đánh giá rủi ro tín dụng; Quyết định cho vay; Thủ tục, giấy tờ hợp đồng giải ngân; Đánh giá chất lượng, xem lại khoản vay. Từ đó xây dựng mô hình tổ chức triển khai dịch vụ tín dụng đối với doanh nghiệp theo nguyên tắc phân định rõ trách nhiệm thành 2 bộ phận: tiếp nhận, giải quyết hồ sơ và bộ phận thẩm định (áp dụng tại Bangkok Bank) hoặc thành 3 bộ phận: Marketing khách hàng, thẩm định và bộ phận quyết định cho vay (áp dụng tại Siam Commericial Bank).
Thứ hai, tuân thủ nghiêm ngặt các vấn đề có tính nguyên tắc trong tín dụng: Hầu hết các ngân hàng Thái Lan trước đây chỉ quan tâm đến tài sản thế chấp, không quan tâm đến dòng tiền của khách hàng vay, không tuân thủ nguyên tắc trong tín dụng nên giai đoạn 1997-1999 nợ xấu lên tới 40%. Hiện nay, các ngân hàng đã thực hiện nghiêm ngặt nguyên tắc tín dụng, đặc biệt thông tin tín dụng. Trên cơ sở báo cáo tài chính và các nguồn thông tin, ngân hàng xác định vòng chu chuyển dòng tiền và vòng thu hồi vốn đầu tư, tiến hành dự báo rủi ro trong tương lai, các phương án và khả năng khắc phục của doanh nghiệp..
Khi doanh nghiệp đến vay vốn cán bộ ngân hàng phải giải quyết được các vấn đề sau mới quyết định cho vay: Tư cách, giấy phép kinh doanh của doanh nghiệp, có tin tưởng được không? Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, hoạt động nào thành công, hoạt động nào không thành công? Mục đích của khoản vay là gì? Nguồn trả nợ là gì? (dòng tiền tệ và khả năng trả nợ); ngân hàng có kiểm soát được doanh nghiệp sử dụng tiền vay không? Doanh nghiệp có năng lực, kiến thức quản trị, điều hành doanh nghiệp không? Thực trạng tài chính của doanh nghiệp...
.Quy trình trên có thể minh họa bằng sơ đồ sau:
Phân tích tín dụng
Tiếp xúc doanh nghiệp vay
Thẩm định tín dụng
Phân tích, đánh giá rủi ro tín dụng doanh nghiệp
Quyết định cho vay
Thủ tục, giấy tờ hợp
đồng giải ngân
Đánh giá chất lượng xem lại khoản vay.
Sơ đồ 1.4. Quy trình tín dụng đối với doanh nghiệp vay của Ngân hàng Thái Lan
Thứ ba, thực hiện nguyên tắc cho điểm doanh nghiệp vay: Hầu hết các ngân hàng Thái Lan áp dụng cho điểm doanh nghiệp để quyết định cho vay. Thường áp dụng việc chấm điểm doanh nghiệp theo các mô hình điểm số Z và mô hình điểm số tín dụng tiêu dùng. Áp dụng xếp loại tín dụng như là một công cụ quyết định tự động đối với khoản vay thế chấp, cho vay doanh nghiệp theo các hình thức phổ biến...
Thứ tư, giám sát khoản vay của doanh nghiệp: Công tác kiểm tra, giám sát trước, trong và sau khi cho vay được tăng cường, trên cơ sở thông tin thu thập được để đánh giá xếp loại doanh nghiệp và có biện pháp xử lý kịp thời các tình huống rủi ro.
Thứ năm, tuân thủ quyền phán quyết tín dụng: Hầu hết các Ngân hàng Thái Lan quy định việc quyết định tín dụng theo mức tăng dần từ mức phán quyết cho Giám đốc Chi nhánh cho đến hội đồng tín dụng, hội đồng quản trị...
Ngoài những nội dung trên, hầu hết các Ngân hàng Thái Lan đều coi trọng việc đào tạo theo từng vị trí công việc để nâng cao trình độ, kỹ năng, tạo khả năng thực thi độc lập nhiệm vụ được phân công cho cán bộ, nhân viên ngân hàng. Các ngân hàng đều áp dụng sổ tay tín dụng và có chính sách cho vay riêng đối với doanh nghiệp trong lĩnh vực bất động sản bởi đây là lĩnh vực có rủi ro cao.
1.4.2. Kinh nghiệm của Ngân hàng Hàn Quốc
Hệ thống quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp của Ngân hàng Phát triển Hàn Quốc (KDB) thể hiện qua 5 nội dung cơ bản: (1) Chiến lược, hạ tầng quản trị rủi ro;
(2) Mô hình quản trị rủi ro; (3) Hệ thống quản lý hạn mức rủi ro; (4) Hệ thống phê duyệt tín dụng; (5) Hệ thống kiểm soát rủi ro tín dụng” (48, 2012). [53].
1.4.2.1. Chiến lược quản trị rủi ro
KDB xác định chiến lược rủi ro hướng tới tối đa hóa lợi nhuận trong phạm vi rủi ro chấp nhận được là tối ưu hóa phân bổ vốn rủi ro. Rủi ro nên được xem xét trên cả hai mặt là cơ hội và thách thức, và không chỉ trên tác động của nó tới các khía cạnh định lượng như vốn kinh tế, mức độ biến động của lợi nhuận... mà còn trên cả những ảnh hưởng tiềm tàng tới cơ cấu tổ chức, kết quả hoạt động và danh tiếng của ngân hàng.
1.4.2.2. Mô hình quản trị rủi ro
Phù hợp với mục tiêu hoạt động, KDB xây dựng lộ trình hướng tới mô hình quản trị rủi ro hiện đại với từng giai đoạn như sau:
Giai đoạn 1 của quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp là tuân thủ các nguyên tắc quản lý theo Basel II bằng việc thiết lập hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ nhằm tính toán ba cấu phần PD- xác suất doanh nghiệp không trả được nợ, LGD- tỷ lệ tổn thất dự kiến (%) trong trường hợp doanh nghiệp không trả được nợ và EAD- số dư nợ rủi ro. Dựa trên kết quả tính toán PD, LGD và EAD, các ngân hàng sẽ phát triển các ứng dụng trong quản trị rủi ro tín dụng trên nhiều phương diện, mà ứng dụng đầu tiên là tính toán, đo lường rủi ro tín dụng qua EL - tổn thất dự kiến và UL - tổn thất ngoài dự kiến tại cấp độ một khách hàng, cụ thể:
ELi = PD x LGD x EAD
UL = độ lệch tiêu chuẩn của EL = LGD x EAD x rPD(1 − PD)
Tuy nhiên, việc đo lường, tính toán vốn tối thiểu cần duy trì để bù đắp rủi ro cho các khoản vay không chỉ dừng lại ở những khoản vay đơn lẻ mà còn tính toán đến rủi ro của cả danh mục tín dụng.
Giai đoạn 2: là quản lý rủi ro danh mục đầu tư bằng cách lượng hóa mức tổn thất dự kiến (Elp) và ngoài dự kiến (Ulp) của cả danh mục đầu tư dựa trên việc xác định độ rủi ro tương quan giữa các tài sản/mức vỡ nợ của các tài sản có rủi ro và mức rủi ro tập trung của cả danh mục.
Elp = ∑ Eli
Ulp = r∑∑Uli Ulj Pij
Giai đoạn 3: Ngân hàng có thể quản trị vốn kinh tế và định giá khoản vay theo mức rủi ro tương ứng. Khi các thước đo rủi ro tín dụng là EL và UL đã được lượng hóa, ngân hàng có cơ sở để xác định lãi suất cho vay theo đúng phương châm “rủi ro cao, lợi nhuận cao; rủi ro thấp, lợi nhuận thấp” qua cơ chế tính giá bù đắp rủi ro.
Giai đoạn 4: Cao hơn việc quản lý vốn kinh tế và định giá khoản vay theo rủi ro, ngân hàng hướng tới việc quản lý rủi ro danh mục tín dụng chủ động (ACPM - Active credit portfolio mangement) thay vì quản lý rủi ro danh mục một cách thụ động bằng việc xác định và chuyển giao rủi ro một cách chủ động thông qua việc sử dụng ngân quỹ tín dụng và chứng khoán hóa khoản vay (Credit Treasury and Securitisation).
Giai đoạn 5: Mô hình toàn diện nhất mà ngân hàng đạt được là quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp trên cơ sở giá trị (Value - based management - VBM). Khi đó, tất cả các giá trị đã được điều chỉnh rủi ro của khoản tín dụng đơn lẻ cho đến danh mục đầu tư đều được xác định, giúp cho công tác quản trị rủi ro được hiệu quả, chính xác.
1.4.2.3. Hệ thống quản lý hạn mức rủi ro
Quản lý hạn mức rủi ro bao gồm hai cấp độ là giới hạn tín dụng theo ngành và theo doanh nghiệp vay. Đối với ngành hàng, hạn mức được xác định trên cơ sở kết hợp việc đánh giá giữa dấu hiệu (tầm nhìn dài hạn) và xếp hạng (tầm nhìn ngắn hạn) để đưa ra định hướng tăng trưởng, duy trì hay rút lui. Mục tiêu của việc thiết lập hạn mức theo từng ngành nhằm phòng tránh rủi ro tập trung vào một ngành hàng cụ thể, đồng thời tối ưu hóa hiệu quả của các tiêu chí quản lý rủi ro từng ngành. Với danh mục đầu tư tín dụng của mình, KDB phân loại thành 25 ngành nhỏ để quản lý. Rủi ro của mỗi ngành được lượng hóa dựa trên các tiêu chí và tỷ trọng của từng tiêu chí, chẳng hạn: Lợi nhuận điều chỉnh theo rủi ro (Risk adjusted profit), tỷ lệ rủi ro tập trung, rủi ro thị trường, xếp hạng ngành và các yếu tố đánh giá định tính.
Hàng năm, KDB tiến hành phân tích đánh giá các ngành hàng cần chú ý dựa trên danh sách sơ bộ các ngành hàng bộ phận nghiên cứu thị trường, bộ phận đánh giá
kỹ thuật và bộ phận phê duyệt tín dụng sẽ thẩm tra một cách kỹ lưỡng và gửi báo cáo phân tích cho Hội đồng quản lý ngành để xem xét, lựa chọn cuối cùng các ngành cần chú ý và tiến hành các chương trình quản lý đặc biệt đối với ngành này.
Căn cứ trên hạn mức rủi ro ngành và kết quả xếp hạng tín dụng ngành, hạn mức rủi ro của doanh nghiệp (chủ yếu là các doanh nghiệp lớn) được xác định như sau:
Hạn mức rủi ro = Giá trị nhỏ nhất giữa khả năng trả nợ doanh nghiệp và khả năng chấp nhận rủi ro của KDB. Trong đó:
- Khả năng trả nợ của doanh nghiệp = Giá trị doanh nghiệp - Các khoản nợ vay từ các TCTD khác;
- Khả năng chấp nhận rủi ro của ngân hàng = Vốn yêu cầu x Hạn mức được cấp cho hạng tín dụng.
Ngoài hạn mức rủi ro cho từng doanh nghiệp, KDB cũng thiết lập hạn mức rủi ro cho nhóm doanh nghiệp có liên quan.
Trường hợp hạn mức rủi ro của một doanh nghiệp hay một nhóm doanh nghiệp có liên quan vượt quá giới hạn cho phép, các quyết định cấp tín dụng phải được phê duyệt bởi Chủ tịch Hội đồng quản trị (Hội đồng thành viên). Đối với các giao dịch có mức độ rủi ro cao, hệ thống đưa ra các tiêu thức nhận dạng và quản lý hạn mức rủi ro chặt chẽ.
1.4.2.4. Hệ thống phê duyệt tín dụng
Hệ thống phê duyệt tín dụng của ngân hàng thể hiện ở vai trò, chức năng và thẩm quyền của từng bộ phận, cá nhân trong quá trình phê duyệt tín dụng. Hệ thống được thiết lập theo từng đối tượng khách hàng doanh nghiệp: Doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp nhỏ và vừa, định chế tài chính. Mô hình phê duyệt tín dụng KDB gồm: bộ phận lập kế hoạch, bộ phận quản lý rủi ro, bộ phận tín dụng, trung tâm nghiên cứu ngành, vai trò của bộ phận xét duyệt tín dụng, bộ phận đánh giá kỹ thuật / hỗ trợ công nghệ, bộ phận tư vấn và bộ phận quan hệ khách hàng.
1.4.2.5. Hệ thống kiểm soát rủi ro tín dụng
Hệ thống kiểm soát rủi ro tín dụng của KDB được thiết lập một cách độc lập, áp dụng cho từng khoản tín dụng riêng lẻ, bao gồm cả những khoản tín dụng ngoại bảng và toàn bộ danh mục tín dụng của ngân hàng trên nguyên tắc quản lý hàng ngày và đưa ra cảnh báo sớm mỗi khi hệ thống phát hiện ra rủi ro. Hệ thống cũng cho phép ngân hàng kiểm tra tình trạng của khoản vay từ điều kiện cấp tín dụng, xếp hạng khách hàng, điều kiện giải ngân, dự phòng rủi ro, hạn mức rủi ro và mức độ tuân thủ pháp
luật. Hệ thống cũng là công cụ giúp ngân hàng đánh giá lại chiến lược rủi ro cũng như các chính sách trước khi xảy ra rủi ro. Kết quả kiểm tra kiểm soát rủi ro tín dụng sẽ được báo cáo trực tiếp lên Ủy ban quản lý rủi ro.
Hệ thống cảnh báo sớm của KDB được xây dựng từ năm 2000, với mục tiêu tối thiểu hóa tổn thất và tăng cường tính an toàn cho các khoản tín dụng bằng cách nhận biết sớm các dấu hiệu không trả được nợ của doanh nghiệp để đưa ra các giải pháp xử lý thích hợp.
Hệ thống này được áp dụng cho các doanh nghiệp có quy mô tương đối lớn với tổng mức vốn vay trên 1 tỷ KRW. Hệ thống gồm (i) đánh giá định kỳ, được thực hiện hàng quý vào các tháng 2, 5, 8, 11; (ii) đánh giá tức thì được thực hiện để nhận biết các sự kiện như doanh nghiệp bị xảy ra nợ quá hạn hay bán nợ ở bất kỳ TCTD nào; (iii) đánh giá khi cần thiết được thực hiện khi ngân hàng nhận thấy có một sự kiện kinh tế quan trọng có thể ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Với sự hỗ trợ của hệ thống cảnh báo sớm, chất lượng quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng được nâng lên nhờ việc giảm thiểu và ngăn chặn sớm những nguy cơ xảy ra tổn thất.
1.4.3. Kinh nghiệm của Ngân hàng Mỹ
Thứ nhất, hầu hết các Ngân hàng ở Mỹ có sự phân định rõ chức năng các Ban trong cơ cấu tổ chức có liên quan đến quy trình tín dụng:
- Ban lãnh đạo: Là bộ phận có quyền quyết định cao nhất. Ban lãnh đạo phân bổ nguồn vốn, điều hành hoạt động của cả ngân hàng trong đó có hoạt động tín dụng. Ban lãnh đạo đề ra mức rủi ro của ngân hàng; đề ra mục tiêu chiến lược và các quy định chung áp dụng trong toàn ngành ngân hàng; kiểm tra lại quyết định cấp tín dụng của các cán bộ tín dụng nếu thấy nghi ngờ có khả năng gây ra thiệt hại về vật chất, hoặc ảnh hưởng tới uy tín của ngân hàng.
- Ban hoạch định chính sách tín dụng: Bao gồm các cán bộ cao cấp, đứng đầu là trưởng ban. Ban này phải chịu trách nhiệm trong việc duy trì một hình thức quản trị rủi ro tín dụng hoàn chỉnh, có hiệu quả; tham gia vào việc lập kế hoạch đầu tư gián tiếp, dự đoán những tổn thất tín dụng; thiết lập các chính sách và tiêu chuẩn tín dụng phù hợp với luật, với quy định chung của ngân hàng; xem xét và chỉnh sửa chính sách tín dụng nếu xét thấy chúng có thể gây ra rủi ro bất thường; xem xét trao quyền cấp tín dụng cho những cán bộ có đủ năng lực; lập báo cáo về đầu tư gián tiếp, tập trung đánh