Chiều Ảnh Hưởng Của Các Nhân Tố Đến Rủi Ro Tín Dụng Đối Với Doanh Nghiệp Theo Các Nghiên Cứu Trước Đây


không áp đặt cho các ngân hàng lớn, vì họ mong đợi Chính phủ bảo vệ trong trường hợp ngân hàng bị phá sản (Stern & Feldman, 2004). Qua đó, các ngân hàng lớn tăng đòn bẩy của họ quá nhiều và cho vay với chất lượng khách hàng thấp hơn. Theo Boyd và Gertler (1994), trong những năm 1980, xu hướng các ngân hàng lớn của Mỹ có danh mục đầu tư rủi ro cao hơn bởi sự khuyến khích của chính sách “Too big to fail” (Quá lớn nên không thể bị phá sản) của Chính phủ Mỹ. Mặt khác, Ennis và Malek (2005) kiểm tra hiệu quả của các ngân hàng Mỹ bằng cách phân loại quy mô giai đoạn 1983-2003 và kết luận những bằng chứng về quy mô của các ngân hàng “Quá lớn nên không thể bị phá sản” không rõ ràng.

Jin-Li Hu và cộng sự (2004) tìm thấy mối quan hệ ngược chiều giữa quy mô ngân hàng và rủi ro tín dụng ngân hàng. Lập luận của các tác giả cho rằng các ngân hàng lớn có hệ thống quản trị rủi ro tốt hơn và đương nhiên những ngân hàng này có nhiều cơ hội để nắm giữ danh mục cho vay ít rủi ro nhất nên có thể hạn chế được rủi ro tín dụnghơn những ngân hàng có quy mô nhỏ. Ngoải ra Somanadevi Thiagarajan và cộng sự (2011) khi nghiên cứu tác động đến rủi ro tín dụngtại các ngân hàng ở Ấn Độ trong giai đoạn từ 2001-2010 hoặc nghiên cứu của Hess & cộng sự (2008) (trích bởi Daniel Foos và cộng sự, 2010) khi phân tích dữ liệu của 32 ngân hàng Australia trong giai đoạn 1980-2005 cũng tìm được kết quả tương tự.

Đối với Việt Nam, các NHTM có quy mô lớn thường tập trung cho các doanh nghiệp nhà nước và các tập đoàn lớn vay vốn, mà các doanh nghiệp này luôn có ưu thế trong quan hệ vay mượn, nên các NHTM thường đơn giản hóa thủ tục xét duyệt cho vay. Điều này có nguy cơ ẩn chứa rủi ro tín dụng đối với các khoản vay này.

b) Yếu tố về tốc độ tăng trưởng tín dụng

Tốc độ tăng trưởng tín dụng được xem như một trong những yếu tố ảnh hưởng và cảnh báo sớm tới rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Trong cơ chế gia tốc tài chính Fisher (1933) và Keynes (1934) đã cho rằng trong giai đoạn tăng trưởng tín dụng nhanh, các dòng vốn được bơm vào nền kinh tế liên tục khiến cho giá trị của tài sản liên tục tăng, các chỉ tiêu và lợi nhuận của các chủ thể kinh tế trở nên “đẹp” hơn so với thực tế. Điều này khiến cho các khoản tín dụng được cấp dễ dàng với mức độ rủi ro tín dụng cao hơn. Đồng thời tăng trưởng tín dụng nhanh thường xảy ra trong giai đoạn các NHTM cạnh tranh với nhau gay gắt, khiến cho các tiêu chuẩn tín dụng bị suy giảm và rủi ro tín dụng trong tương lai sẽ tăng lên (Dell Arccia và cộng sự, 2009; Salas và Saurina, 2002 tuy vậy mối quan hệ này có một độ trễ nhất định; Jimenz và Saurina, 2007). Đồng thời Berger và cộng sự (2004) cũng cho rằng tăng trưởng tín


dụng nhanh sẽ ảnh hưởng đến khả năng quản trị rủi ro tín dụng và quản lý thông tin khách hàng của các NHTM, từ đó khiến cho rủi ro tín dụngcó thể gia tăng. Keeton (1999) phân tích ảnh hưởng của tốc độ tăng trưởng tín dụng đến rủi ro tín dụng của các NHTM Mỹ năm 1982-1996 và kết quả cho thấy mối quan hệ cùng chiều với rủi ro tín dụng.

Daniel Foos & ctg (2010) đã nghiên cứu các yếu tố tác động đến rủi ro tín dụng tại 16.000 ngân hàng trong khoảng thời gian 1997-2007, thuộc 16 quốc gia có ngành tài chính phát triển (Mỹ, Canada, Nhật và 13 nước Châu Âu). Các tác giả đã sử dụng phương pháp GMM để khắc phục hiện tượng biến nội sinh và phương sai thay đổi trong mô hình hội quy OLS ban đầu. Với phương pháp này, các tác giả cho rằng tăng trưởng tín dụng có tác động cùng chiều và tác động rất mạnh đến rủi ro tín dụng đối với khách hàng vay tại NHTM sau hai và ba năm.

Hiện tượng này có thể được giải thích như sau: Khi nền kinh tế tăng trưởng, trước áp lực cạnh tranh để phát triển, các ngân hàng có thể thực hiện hai cách: (1) giảm lãi suất trên mỗi khoản vay mới hoặc (2) nới lỏng điều kiện xét duyệt tín dụng. (1) Giảm lãi suất là điều không thể vì hành động này sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận và sẽ gặp sự ngăn cản mạnh mẽ từ cổ đông. (2) nới lỏng điều kiện xét duyệt tín dụng. Chẳng hạn như: giảm thiểu tiêu chuẩn TSBĐ, chấp nhận những khách hàng có lịch sử tín dụng không tốt hoặc yêu cầu ít chứng cứ về dòng thu nhập bảm đảm cho khoản vay. Điều này sẽ tích lũy rủi ro và bộc phát vào giai đoạn kinh tế suy thoái. Các khoản vay có chất lượng thấp sẽ có nguy cơ thất thoát trong điều kiện kinh tế khó khăn, tác động này có thể với độ trễ một vài năm. Tăng trưởng tín dụng theo cách này sẽ làm tăng rủi ro tín dụngdẫn đến việc trích lập dự phòng nhiều hơn trong tương lai cho những khoản vay.

Somanadevi Thiagarajan và cộng sự (2011) khi nghiên cứu các yếu tố tác động đến rủi ro tín dụng tại các ngân hàng ở Ấn Độ giai đoạn 2001-2010 cũng cho rằng tăng trưởng tín dụng có tác động cùng chiều đến rủi ro tín dụng với độ trễ sau hai năm.

c) Yếu tố về tỷ lệ vốn chủ sở hữu (Vốn chủ sở hữu/tổng tài sản)

Theo Hiệp ước Basel II thì tỷ lệ vốn chủ sở hữu/tổng tài sản được mở rộng thành tỷ lệ vốn chủ sở hữu/tổng tài sản có trọng số rủi ro. Khi nợ xấu gia tăng, các nhà quản trị phải gia tăng các chi phí liên quan đến quản lý nợ xấu cũng như hạch toán tài sản có trọng số rủi ro cao. Điều này dẫn đến hệ số vốn chủ sở hữu/tổng tài sản giảm và tỷ lệ dự phòng so với tổng dư nợ phải tăng khi nợ xấu gia tăng.

Kết quả tương quan âm giữa hệ số vốn chủ sở hữu / tổng tài sản và rủi ro tín dụng được tìm thấy phần lớn ở hệ thống ngân hàng Nga (Pestova A., Manovov M., 2011), hệ thống ngân hàng Mỹ (Park, J.H & Zhang, L., 2012). Trong khi kết quả


không có sự tương quan giữa hệ số vốn chủ sở hữu/ tổng tài sản với rủi ro tín dụng được tìm thấy ở các quốc gia như Hy Lạp (Louzis D., 2010), Ấn Độ (Das A., Ghos, S., 2007), Romania (Vogiazas, S.; Nikolaidou E., 2011).

d) Yếu tố về tỷ lệ dư nợ/vốn huy động

Kết quả tương quan dương giữa dư nợ cho vay/vốn huy động và rủi ro tín dụng được tìm thấy phần lớn ở hệ thống ngân hàng Nga (Pestova A., Manovov M., 2011), các ngân hàng thuộc khu vực GCC (Espinoza R., Prasad A., 2010), hệ thống ngân hàng Mỹ (Park, J.H & Zhang, L., 2012), hệ thống ngân hàng Mepalese (Poudel R., 2013). Trong khi kết quả không có sự tương quan giữa hệ số dư nợ cho vay/vốn huy động với rủi ro tín dụngđược tìm thấy ở các quốc gia như Romania (Vogiazas, S; Nikolaidou E., 2011), Ấn Độ (Das A., Ghos, S., 2007).

đ) Yếu tố về tỷ lệ lợi nhuận /vốn chủ sở hữu (ROE)

Mối liên hệ ngược chiều giữa rủi ro tín dụngvà khả năng sinh lời được tìm thấy trong nghiên cứu của Berger và DeYong (1997), Salas và Saurina (2002). Giả thuyết “Quản lý kém” của Berger và DeYoung (1997) lập luận hiệu quả thấp (khả năng sinh lời thấp) quan hệ cùng chiều với sự gia tăng rủi ro tín dụngtrong tương lai. Nghiên cứu cho rằng quản lý kém liên quan đến các kỹ năng kém trong chấm điểm tín dụng, thẩm định tài sản bảo đảm và cam kết giám sát khách hàng vay nợ. Nghiên cứu tìm thấy các bằng chứng thực nghiệm về giả thuyết “Quản lý kém”, ngụ ý nguyên nhân từ khả năng sinh lời thấp dẫn đến rủi ro tín dụng. Nghiên cứu kiểm tra giả thuyết trên gồm các NHTM của Mỹ trong giai đoạn 1985-1994 và kết luận khả năng sinh lời thấp dẫn đến gia tăng các khoản vay có vấn đề trong tương lai. Podpiera và Weill (2008) tiếp tục kiểm dịnh mối quan hệ giữa khả năng sinh lời và rủi ro tín dụngtrong ngành ngân hàng tại Séc giai đoạn 1994-2005. Nghiên cứu cũng cung cấp bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ ngược chiều giữa khả năng sinh lời thấp và rủi ro tín dụng trong tương lai.

e) Yếu tố về Tỷ lệ dư nợ ngắn hạn (trung, dài hạn) (Dư nợ ngắn hạn/trung, dài hạn/tổng dư nợ)

Cơ hội đa dạng hóa danh mục cho vay của các ngân hàng có mối liên hệ với chất lượng tín dụng. Đa dạng hóa danh mục cho vay làm giảm rủi ro tín dụng. Salas và Saurina (2002), Rajan và Dhal (2003) đưa ra bằng chứng thực nghiệm tìm thấy mối quan hệ ngược chiều giữa dư nợ cho vay ngắn hạn với rủi ro tín dụng làm biến kiểm định giả thuyết đa dạng hóa danh mục cho vay.


Bảng 1.1. Chiều ảnh hưởng của các nhân tố đến rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp theo các nghiên cứu trước đây


TT


Tên biến

Chiều tác động kỳ vọng

1.

Quy mô ngân hàng

+/-

2.

Tốc độ tăng trưởng tín dụng

+

3.

Tỷ lệ vốn chủ sở hữu (vốn chủ sở hữu/tổng tài sản)

-

4.

Tỷ lệ dư nợ/vốn huy động

+

5.

Tỷ lệ lợi nhuận/vốn chủ sở hữu (ROE)

-

6.

Tỷ lệ dư nợ ngắn hạn (trung, dài hạn)

-

7.

Tỷ lệ tăng trưởng GDP

-

8.

Tỷ lệ lạm phát

+

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.

Quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam - 7

Nguồn:Tổng hợp của tác giả

1.3. Quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp tại Ngân hàng thương mại

1.3.1. Khái niệm và sự cần thiết quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp trong hoạt động của Ngân hàng thương mại

1.3.1.1. Khái niệm quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp

Đối với bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào, khi rủi ro xảy ra đều kéo theo những ảnh hưởng khó lường và hậu quả của chúng cũng không dễ dàng khắc phục (45). Chính vì vậy, quản trị rủi ro được coi là hoạt động trọng tâm trong các NHTM, bởi kiểm soát và quản lý rủi ro chặt chẽ đồng nghĩa với việc sử dụng một cách hiệu quả nguồn vốn huy động. Đây là trung tâm của hoạt động quản trị điều hành của mỗi NHTM. Theo Ủy ban Basel: “Quản trị trủi ro là một quá trình liên tục cần được thực hiện ở mọi cấp độ của một tổ chức tài chính và là yêu cầu bắt buộc để các tổ chức tài chính có thể đạt được các mục tiêu đề ra và duy trì khả năng tồn tại và sự minh bạch về tài chính”.

Quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp là một trong những hoạt động chủ đạo của NHTM hiện nay bởi vì các NHTM có được thu nhập từ 70-80% từ hoạt động tín dụng trong đó, tín dụng đối với khách hàng là doanh nghiệp chiếm gần 70% (67%) tổng dư nợ của toàn hệ thống ngân hàng. Bởi vậy, hoạt động quản trị rủi ro tín dụng


đối với doanh nghiệp phải hướng vào việc đảm bảo hiệu quả hoạt động tín dụng và không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng của NHTM ngay cả trong những điều kiện thị trường đầy biến động, nguy cơ rủi ro không ngừng gia tăng.

Có nhiều cách hiểu khác nhau về quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp. Đây là một khái niệm với nội hàm rộng. Theo IMF’s Compilation Guide on Financial Soundoanh nghiệpess Indicators 2004 (Guide) thì: “Quản trị rủi ro tín dụng là việc thiết lập cơ chế nhận biết, đo lường, quản trị và kiểm soát được các rủi ro hiện tại và rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động tín dụng một cách đầy đủ toàn diện nhằm tối đa hóa lợi nhuận được điều chỉnh theo yếu tố rủi ro bằng cách duy trì mức độ rủi ro tín dụng trong một phạm vi chấp nhận được”.

Theo quan điểm hiện đại, “Quản trị rủi ro tín dụng đối với rủi ro tín dụng là quá trình xây dựng và thực thi các chiến lược, chính sách quản lý, biện pháp kinh doanh tín dụng nhằm tối đa hóa lợi nhuận trong phạm vi mức rủi ro có thể chấp nhận được. Kiểm soát rủi ro tín dụng ở mức có thể chấp nhận là việc NHTM tăng cường các biện pháp phòng ngừa, hạn chế và giảm thấp nợ quá hạn, nợ xấu đối với khách hàng doanh nghiệp trong kinh doanh tín dụng, nhằm tăng doanh thu tín dụng cả trong ngắn hạn và dài hạn”.

“Quản trị rủi ro tín dụng là một bộ phận quan trọng trong cách tiếp cận rủi ro tổng thể và được coi là đóng vai trò sống còn cho sự thành công của Ngân hàng trong dài hạn” (Basel Commitee on Banking Supervision, 2005).

Qua những quan điểm trên, tác giả thấy: Quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp tại các NHTM là việc xây dựng chiến lược, chính sách và quy trình cho vay đối với doanh nghiệp và tổ chức điều hành triển khai thực hiện chiến lược, chính sách và quy trình tín dụng đối với doanh nghiệp nhằm đảm bảo an toàn, hạn chế rủi ro ở mức tối thiểu mà ngân hàng có thể chấp nhận được.

Khái niệm này sẽ được xây dựng trong nghiên cứu phân tích và là nội hàm cho cả quá trình nghiên cứu của Luận án.

1.3.1.2. Sự cần thiết quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp trong hoạt

động Ngân hàng thương mại Viêt Nam

(1) Rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp là căn nguyên chủ yếu tạo ra các vấn

đề của ngân hàng

Cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 bắt nguồn từ Đông Nam Á đã làm cho nhiều ngân hàng ở Châu Á bị mất hàng tỷ đô la Mỹ, bị phá sản, hoặc buộc phải sáp


nhập, trong đó nguyên nhân quan trọng nhất là tỷ lệ nợ quá hạn của các ngân hàng tăng cao. Thời điểm trước cuộc khủng hoảng, tỷ lệ nợ quá hạn của các Ngân hàng Thái Lan là 13%, Indonesia 13%, Philippines 14%, Malaysia 10%. Tiếp đến là cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế Mỹ bắt nguồn từ làn sóng cho vay thế chấp nhà đất rủi ro cao đã minh chứng rất rõ căn nguyên cơ bản tạo ra ở vấn đề của ngân hàng là rủi ro tín dụng. Vì vậy, vấn đề quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp luôn là vấn đề sống còn của NHTM.

(2) Mức độ rủi ro trong hoạt động tín dụng ngày càng gia tăng

Sự cần thiết quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp không chỉ xuất phát từ tính chất phức tạp và nguy cơ lớn của rủi ro tín dụng mà còn do xu hướng kinh doanh của ngân hàng ngày càng trở lên rủi ro hơn. Một số nguyên nhân chủ yếu làm cho mức độ rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng ngày càng gia tăng:

- Quá trình tự do hóa, nới lỏng quy định trong hoạt động ngân hàng trên phạm vi toàn thế giới. Trong hoạt động ngân hàng cạnh tranh làm cho chênh lệch lãi suất biên ngày càng giảm xuống. Tác động này làm cho các ngân hàng ngày càng có xu hướng mở rộng quy mô kinh doanh để bù đắp sự sụt giảm lợi nhuận, trong đó mở rộng quy mô tín dụng đồng nghĩa với việc rủi ro tín dụng có nguy cơ gia tăng.

- Hoạt động kinh doanh của ngân hàng ngày càng theo xu hướng đa năng phức tạp, với công nghệ ngày càng phát triển, cùng với xu hướng hội nhập cạnh tranh gay gắt vừa tăng thêm mức độ rủi ro và nguy cơ rủi ro mới. Trong lĩnh vực tín dụng các sản phẩm tín dụng có bước phát triển mạnh mẽ, vượt xa so với sản phẩm tín dụng truyền thống. Các sản phẩm tín dụng dựa trên cơ sở của sự phát triển công nghệ như thẻ tín dụng, cho vay cá thể... luôn chứa đựng rủi ro mới. Nhưng dưới áp lực của cạnh tranh thì việc mở rộng và đa dạng hóa sản phẩm cũng như phạm vi của hoạt động tín dụng trở nên cấp thiết hơn. Với sự đa dạng phức tạp của sản phẩm tín dụng cũng như rủi ro tín dụng càng đòi hỏi quản trị rủi ro tín dụng phải được chú trọng nâng cấp tương xứng.

- Đối với những nước đang phát triển, đang trong quá trình chuyển đổi thì môi trường kinh tế chưa ổn định, hệ thống pháp luật đang xây dựng, mức độ minh bạch của thông tin thấp, thì hoạt động ngân hàng càng trở lên rủi ro hơn, vì vậy việc thực hiện tốt công tác quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp là một việc quan trọng.

1.3.2. Vai trò của quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp trong hoạt

động Ngân hàng thương mại

(1) Quản trị rủi ro tín dụngđối với doanh nghiệp tốt góp phần giảm thiểu chi phí


hoạt động, giảm tổn thất cho chính bản thân ngân hàng.

Do phần lớn thu nhập của ngân hàng là từ hoạt động tín dụng, trong khi đó rủi ro tín dụng là rủi ro lớn nhất và thường xuyên trong hoạt động tín dụng mà ngân hàng phải đối mặt (Bhattacharya & Roy, 2008, trích trong Ravi P.S.Poudel, 2013) và cũng là nguyên nhân chính dẫn đến khủng hoảng tài chính ở Mỹ tháng 10/2007, sau đó là khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay. Vì vậy, quản trị rủi ro tín dụngtốt, có hiệu quả là mục tiêu cho sự sống còn của các ngân hàng.

Chi phí cho việc trích lập, dự phòng và xử lý các khoản rủi ro tín dụng là rất lớn. Theo quy định của Thông tư số: 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 của NHNN Việt Nam ban hành quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của TCTD, “chi nhánh ngân hàng nước ngoài yêu cầu các ngân hàng phải trích lập đủ dự phòng cho các khoản rủi ro, điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến lợi nhuận của ngân hàng” (Ngân hàng Nhà nước, 2013).

(2) Quản trị rủi ro tín dụngđối với doanh nghiệp tốt góp phần tạo điều kiện làm lạnh mạnh tình hình tài chính, ngăn ngừa nguy cơ vỡ nợ của các ngân hàng, cũng như gia tăng năng lực tài chính của các ngân hàng trong quá trình gia nhập thế giới trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, cũng như đáp ứng được các yêu cầu của đề án tái cơ cấu các NHTM đã được NHNN đề ra, cũng như đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá các NHTM Nhà nước.

(3) Quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp tốt góp phần ổn định tình hình kinh tế xã hội của đất nước, khu vực. Thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế ổn định và bền vững, tạo lòng tin vững chắc từ công chúng và khách hàng của các ngân hàng cũng như tạo niềm tin và gia tăng mức độ tín nhiệm đối với cộng đồng, các tổ chức Quốc tế.

(4) Quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp tốt là một lợi thế cạnh tranh, là công cụ tạo ra giá trị của NHTM

Tiến sĩ S.L.Srinivasulu, Chủ tịch tập đoàn KESEDEE Inc- nơi cung cấp các giải pháp đào tạo Elearning về tài chính có trụ sở tại Hoa Kỳ đã nói “Hãy nói cho tôi biết bạn quản trị rủi ro ra sao, tôi sẽ nói Ngân hàng bạn thế nào” để mở đầu câu chuyện về quản trị rủi ro trong ngân hàng. Từ lâu công tác quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp được xem như là một chức năng nhằm thỏa mãn yêu cầu tuân thủ pháp chế và kiểm soát nội bộ. Dưới góc nhìn này, rủi ro được xem như là “điều không mong muốn nhưng phải chấp nhận” trong kinh doanh. Quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp tốt chính là một nguồn lợi thế cạnh tranh và là công cụ tạo ra giá trị, góp phần


tạo ra các chiến lược kinh doanh hiệu quả hơn.

1.3.3. Các nguyên tắc quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp trong hoạt

động Ngân hàng thương mại

Quản trị rủi ro tín dụngdựa trên hàng loạt các nguyên tắc. Theo Basel II có 17 nguyên tắc. Tuy nhiên, tại đây trình bày một số nguyên tắc cơ bản như sau:

- Chấp nhận rủi ro: Bản thân hoạt động ngân hàng luôn chứa đựng rủi ro, vì vậy một trong những nguyên tắc của ngân hàng là chấp nhận rủi ro. Rủi ro là sự hiện hữu khách quan trong hoạt động tín dụng ngân hàng, ngân hàng phải biết chấp nhận rủi ro cho phép nếu như mong muốn một mức thu nhập phù hợp. Bởi muốn loại bỏ hoàn toàn rủi ro tín dụngtrong hoạt động ngân hàng là điều không thể. Đây là một xu thế tất yếu của nền kinh tế thị trường.Việc chấp nhận mức độ, loại bỏ rủi ro tín dụng nào chính là điều kiện quan trọng để điều tiết những tác động tiêu cựu của chúng trong quá trình quản trị rủi ro tín dụng.

- Điều hành rủi ro cho phép: Ngân hàng phải tính toán khả năng gánh chịu rủi ro của mình để thực hiện việc cấp tín dụng cho phù hợp. Không cấp tín dụng cho những món vay không có khă năng khống chế và kiểm soát.

- Quản lý độc lập các rủi ro tín dụngriêng biệt: Các rủi ro trong ngân hàng là độc lập nhau chính vì vậy phải có biện pháp quản lý riêng rẽ, không được gộp các rủi ro để đưa ra cùng một phương pháp điều hành. Cùng một loại rủi ro nhưng phải được sắp xếp, phân loại và quản lý theo từng nhóm nhằm phù hợp với yêu cầu quản lý và tuân theo quy định của pháp luật.

- Phù hợp giữa mức độ rủi ro cho phép và mức độ thu nhập: Nguồn thu chủ yếu của ngân hàng là thu từ hoạt động tín dụng, chính vì vậy không ít ngân hàng đã chạy theo mục tiêu lợi nhuận mà mắc sai sót trong việc quản trị rủi ro. Nguyên tắc này là nền tảng của lý thuyết quản trị rủi ro tín dụng. Các ngân hàng trong quá trình hoạt động của mình chỉ được phép chấp nhận các loại, mức độ rủi ro tín dụngmà thiệt hại khi chúng xẩy ra không được cao quá mức thu nhập phù hợp. Có nghĩa rằng, tất cả các loại rủi ro có mức độ rủi ro cao hơn mức độ thu nhập mong đợi cần phải được loại bỏ.

- Phù hợp giữa mức độ rủi ro cho phép và khả năng tài chính: Giá trị thiệt hại mà ngân hàng mong muốn từ những khoản rủi ro tín dụngphải phù hợp với phần vốn mà ngân hàng có thể trích lập dự phòng cho những thiệt hại do chúng gây ra. Đây là nguyên tắc hết sức quan trọng vì khi rủi ro tín dụngxảy ra nó kéo theo sự thiệt hại thu nhập, giảm tiềm năng lợi nhuận và nhịp độ phát triển ngân hàng trong tương lai.

- Hiệu quả kinh tế: Mục đích cơ bản của việc quản trị rủi ro tín dụnglà điều tiết

Xem tất cả 232 trang.

Ngày đăng: 02/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí