tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào của công dân”[8]. Đến Đại hội IX: “Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật”[9].
Sau 10 năm, từ năm 1981, ngày 16-10-1990, Bộ Chính trị đã bàn về vấn đề tôn giáo và ban hành Nghị quyết 24-NQ/TW về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới”. Sự ra đời của NQ 24 có thể coi là bước ngoặt lớn, một dấu mốc trong quá trình nhận thức của Đảng ta trên lĩnh vực tôn giáo với luận điểm quan trọng, khẳng định: “Tôn giáo là một vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới. Chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân, thực hiện đoàn kết lương giáo, đoàn kết toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Để tiếp tục đổi mới nhận thức về tôn giáo và công tác tôn giáo, lần đầu tiên tại Hội nghị lần thứ Bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá IX ra nghị quyết riêng về công tác tôn giáo (Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 12-3-2003). Nghị quyết xác định rõ phương hướng và mục đích cơ bản của hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo là “Nhằm tăng cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”1. Đảng khẳng định: “Đồng bào các tôn giáo là bộ phận quan trọng của khối đại đoàn kết dân tộc. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo của công dân, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp
của các tôn giáo. Động viên, giúp đỡ đồng bào theo đạo và các chức sắc tôn giáo sống “tốt đời, đẹp đạo”. Các tổ chức tôn giáo hợp pháp hoạt động theo pháp luật và
1 Đảng cộng sản Việt Nam,Văn kiện Hội nghị lần thứ Bảy BCH TWkhoá IX. Nxb CTQG, H., 2003, tr.48
được pháp luật bảo hộ. Thực hiện tốt các chương trình phát triển kinh tế -xã hội, nâng cao đời sống vật chất, văn hóa của đồng bào các tôn giáo. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác tôn giáo. Đấu tranh ngăn chặn các hoạt động mê tín dị đoan, các hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm phương hại đến lợi ích chung của đất nước, vi phạm quyền tự do tôn giáo của nhân dân”2.
Hiến pháp Việt Nam năm 1992 ra đời trong công cuộc đổi mới toàn diện của Đảng và Nhà nước ta. Với tinh thần mở rộng tự do dân chủ, khẳng định tính hiện thực của các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, Điều 50 Hiến pháp năm 1992 quy định: "Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật".
Việc Nhà nước chính thức thừa nhận quyền con người trong đạo luật cơ bản, không chỉ khẳng định sự hoàn thiện một bước chế định quyền và nghĩa vụ của công dân mà còn khẳng định chính sách nhất quán trước sau như một của Đảng và Nhà nước ta về quyền con người, quyền công dân, đồng thời chủ động bác bỏ những luận điệu của các thế lực bên ngoài mượn tiếng nhân quyền, can thiệp vào công việc nội bộ, xuyên tạc chính sách kinh tế - xã hội của Việt Nam.
Có thể bạn quan tâm!
- Kinh Nghiệm Bảo Đảm Quyền Tự Do Tín Ngưỡng Và Tôn Giáo Trong Pháp Luật Của Một Số Nước
- Khái Quát Về Tín Ngưỡng Và Tôn Giáo Ở Việt Nam Hiện Nay Việt Nam Là Một Quốc Gia Ở Khu Vực Đông Nam Á Và Đông Á - Thái Bình
- Bảo Đảm Quyền Tự Do Tín Ngưỡng Và Tự Do Tôn Giáo Trong Pháp Luật Việt Nam Hiện Nay
- Những Thành Tựu Và Hạn Chế Về Bảo Đảm Quyền Tự Do Tín Ngưỡng Và Tôn Giáo Trong Pháp Luật Việt Nam
- Chủ Trương, Chính Sách Của Đảng, Pháp Luật Của Nhà Nước Về Tự Do Tín Ngưỡng Và Tự Do Tôn Giáo Chậm Được Thể Chế
- Hệ Thống Pháp Luật Liên Quan Đến Tôn Giáo Chồng Chéo Mâu Thuẫn Nhau Hoặc Chưa Cụ Thể
Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.
2.2.2. Các quy định pháp luật của Nhà nước Việt Nam đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng và tự do tôn giáo
Trước khi có Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo, Chính phủ đã ban hành nhiều Nghị định để điều chỉnh các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo như: Nghị định số 69/NĐ-CP ngày 21 tháng 3 năm 1991, về hoạt động tôn giáo, Nghị định số 26/NĐ- CP ngày 19 tháng 4 năm 1999. Các nghị định đều khẳng định các nguyên tắc: "Nhà nước bảo đảm Quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo và quyền tự do không tín nưỡng, tôn giáo của công dân; công dân theo tôn giáo hoặc không theo tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật về quyền và nghĩa vụ". Các nghị dịnh đều có những quy
định cụ thể hơn đối với một số hoạt động tôn giáo như quy định về quyền hoạt động
2 Đảng cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, NxbCTQG,H;2006, tr.122-123.
tôn giáo của tín đồ; quy định quyền hạn, phạm vi hoạt động của chức sắc, nhà tu hành; quy định cụ thể về thủ tục xin phép với các hoạt động xây sửa nơi thờ tự, thuyên chuyển, bổ nhiệm chức sắc, thủ tục xuất, nhập cảnh Việt Nam của các chức sắc, nhà tu hành; quy định về việc in ấn, xuất bản các loại kinh sách và các ấn phẩm tôn giáo; về quan hệ quốc tế;...
Tuy nhiên, trong quá trình thực thi pháp luật, đã gặp phải một số phản ứng từ phía một số tổ chức và cá nhân tôn giáo bởi cơ chế “xin - cho”, tính cởi mở, thông thoáng chưa nhiều, hầu hết các hoạt động tôn giáo của cá nhân tổ chức tôn giáo đều phải được sự chấp thuận của chính quyền các cấp. Mặc dù vậy, nghị định 26 đã phản ánh sự nỗ lực của Nhà nước ta về bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo những ngày đầu đổi mới.
Cùng với chính sách cởi mở của Đảng, Nhà nước đối với các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, đặc biệt là sự phát triển sôi động của các tín ngưỡng, tôn giáo hiện nay, Nghị định số 26/CP của Chính phủ không tránh khỏi những bất cập cần phải được thay thế bằng một văn bản mới phù hợp hơn. Ngày 18/6/2004 Ủy ban Thường vụ Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa IX đã thông qua Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo; ngày 29/6/2004 Chủ tịch nước đã ký lệnh công bố Pháp lệnh và ngày 15/11/2004, Pháp lệnh có hiệu lực thi hành. Để hướng dẫn thi hành Pháp lệnh, ngày 01/3/2005, Nghị định số 22/2005/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo sau đó được sửa đổi, bổ sung bằng Nghị định số 92/2012/NĐ-CP quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo (sau đây gọi tắt là Nghị định số 92).
Pháp lệnh là văn bản quy phạm pháp luật cao nhất điều chỉnh trực tiếp hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta hiện nay, đã quán triệt, thể chế hóa đầy đủ những quan điểm, chủ trương, chính sách về tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng được ghi nhận trong các kỳ Đại hội, đồng thời kế thừa, phát triển những quy định phù hợp, mang tính khả thi, khắc phục những hạn chế, bất cập; bảo đảm tính tương thích với luật pháp quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập.
Tương thích Điều 18 UDHR và Điều 18 ICCPR, Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn
giáo đáp ứng yêu cầu đảm bảo Quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo, Điều 1 Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo tiếp tục khẳng định: Công dân có Quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Nhà nước bảo đảm Quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo của công dân. Không ai được xâm phạm quyền tự do ấy. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Công dân có tín ngưỡng, tôn giáo hoặc không có tín ngưỡng, tôn giáo cũng như công dân có tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau phải tôn trọng lẫn nhau.[4]. Không được phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; vi phạm Quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo của công dân.Không được phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; vi phạm Quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo của công dân [4, tr.29]. Tuy nhiên về đối tượng của Điều 1 Pháp lệnh hẹp, phạm vi bị giới hạn với 2 chữ "công dân", trong khi đối tượng của Luật quốc tế có phạm vi hẹp "mọi người".
Vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo trong Pháp lệnh cũng được hiểu theo nghĩa rộng, trong đó bao hàm cả loại hình hoạt động không có hệ thống tổ chức song lại liên quan đông đảo quần chúng nhân dân, thể hiện bằng việc thờ cúng tại gia đình và hoạt động của các lễ hội tín ngưỡng dân gian được tổ chức rộng rãi ở khắp các vùng, miền trong cả nước. Nhà nước ta tôn trọng và bảo đảm những hoạt động tín ngưỡng lành mạnh, đề cao các giá trị nhân văn và truyền thống văn hoá dân tộc, đáp ứng nhu cầu tinh thần của đông đảo quần chúng. Mặt khác cũng có những chế tài nhằm hạn chế những mặt trái của hoạt động dịch vụ tín ngưỡng, nhất là những việc lợi dụng để thương mại hoá; các hành vi hành nghề mê tín dị đoan đan xen với các hoạt động tín ngưỡng lành mạnh để trục lợi cá nhân.
Để bảo đảm quyền thực hành tín ngưỡng, tôn giáo, Pháp lệnh quy định "Người có tín ngưỡng, tín đồ được bày tỏ đức tin, thực hành các nghi thức thờ cúng, cầu nguyện và tham gia các hình thức sinh hoạt, phục vụ lễ hội, lễ nghi tôn giáo và học tập giáo lý tôn giáo mà mình tin theo" [4, 30], "chức sắc, nhà tu hành được thực hiện lễ nghi tôn giáo trong phạm vi phụ trách, được giảng đạo, truyền đạo tại các cơ sở tôn giáo [4, 30-31].
Công dân có tín ngưỡng cũng như các tín đồ tôn giáo được tự do bày tỏ đức tin, thực hành các nghi thức thờ cúng, cầu nguyện và tham gia các hình thức sinh hoạt lễ nghi tôn giáo và học tập giáo lý mà mình tin theo; phục vụ lễ hội phù hợp với truyền thống, bản sắc văn hoá dân tộc; không ảnh hưởng đến tập quán, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, tình đoàn kết cộng đồng; bảo đảm an toàn, tiết kiệm và bảo vệ môi trường. Đồng thời tôn trọng quy định của cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo; quy định của lễ hội, quy định trong các hương ước, quy ước của cộng đồng và quy định của pháp luật; tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của người khác; thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo không cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân.
Để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, bảo đảm các sinh hoạt tôn giáo bình thường được diễn ra trong khuôn khổ pháp luật, Nghị định 92/2012/NĐ-CP quy định về thủ tục đăng ký sinh hoạt tôn giáo cho công dân có nhu cầu tập trung để thực hành các nghi thức thờ cúng, cầu nguyện, bày tỏ đức tin về tôn giáo mà mình tin theo thì người đại diện gửi hồ sơ đăng ký sinh hoạt tôn giáo đến ủy ban nhân dân cấp xã.
- Đối với các tổ chức tôn giáo chưa được công nhận: Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo đã mở hướng thuận lợi bằng việc đăng ký hoạt động tôn giáo (tại Điều 6 Pháp lệnh) tiến tới được công nhận về mặt tổ chức khi hội đủ điều kiện. Pháp luật quy định các điều kiện để một tổ chức tôn giáo được công nhận là tổ chức tôn giáo.
- Đối với tổ chức tôn giáo trực thuộc, việc quy định về thành lập, chia, tách, sát nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc của Pháp lệnh là điều khoản hoàn toàn mới, đã tạo điều kiện cho Giáo hội Công giáo Việt Nam tổ chức, thành lập các tổ chức tôn giáo trực thuộc đáp ứng yêu cầu của hoạt động tôn giáo.
- Tổ chức tôn giáo được thành lập các hội đoàn. Trước khi có Pháp lệnh, Nghị định 26/1999/NĐ-CP không quy định đối với hội đoàn tôn giáo, chỉ quy định cho tín đồ được tham gia các hoạt động tôn giáo, học tập giáo lý, đạo đức, phục vụ lễ nghi tôn giáo tại cơ sở thờ tự, do đó quản lý hoạt động của hội đoàn tôn giáo phụ thuộc vào nhận thức của từng ngành, từng địa phương và vận dụng
các quy định khác cho quản lý hội đoàn. Xuất phát từ nhu cầu hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân trong thời kỳ đổi mới, hội đoàn tôn giáo được xác định là một hình thức tập hợp tín đồ do tổ chức tôn giáo lập ra nhằm phục vụ hoạt động tôn giáo. Những hội đoàn do tổ chức tôn giáo lập ra nhằm phục vụ lễ nghi tôn giáo như: Đội kèn, đội trống, đội con hoa, ca đoàn, đội mai táng, đội nhạc lễ, đội đồng nhi theo quy định của Điều 12 Nghị định 92/2012/NĐ-CP khi hoạt động không phải đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Ngoài trường hợp này, Hội đoàn tôn giáo được hoạt động sau khi được tổ chức tôn giáo đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuỳ theo phạm vi hoạt động của Hội đoàn tôn giáo, tổ chức tôn giáo phải đăng ký với Uỷ ban nhân dân cấp huyện, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh hoặc Ban Tôn giáo Chính phủ.
- Tổ chức tôn giáo được thành lập trường đào tạo, mở lớp những người chuyên hoạt động tôn giáo [4, tr.36].
- Chức sắc, nhà tu hành được thực hiện lễ nghi tôn giáo trong phạm vi phụ trách, được giảng đạo, truyền đạo tại các cơ sở tôn giáo, trường hợp thực hiện lễ nghị tôn giáo, giảng đạo, truyền đạo ngoài cơ sở tôn giáo có trách nhiệm gửi hồ sơ đến Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi dự kiến giảng đạo, truyền đạo.
- Việc phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử trong tôn giáo:là một trong những quy định mới có những điểm thay đổi khá cơ bản. Trước kia, đối với các giáo phẩm: Hồng y, Giám mục, Giám quản phải được sự chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ; các chức vụ khác không thuộc diện kể trên thì phải được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chấp thuận mới được hoạt động tôn giáo. Theo quy định mới của Pháp lệnh, tổ chức tôn giáo thực hiện việc phong chức, phong phẩm bổ nhiệm bầu cử theo Hiến chương, điều lệ của tổ chức mình. Nhà nước chỉ đề ra các điều kiện về mặt công dân để tổ chức tôn giáo có căn cứ lựa chọn quyết định và được Nhà nước thừa nhận về mặt kết quả. Đối với trường hợp phong chức từ Giám mục phụ tá, thành viên Ban Thường vụ, Chủ tịch các uỷ ban Hội đồng Giám mục Việt Nam, người đứng đầu các dòng tu, Đại chủng viện, tổ chức tôn giáo có trách nhiệm đăng ký việc phong chức này với Ban Tôn giáo Chính phủ.
- Việc thuyên chuyển nơi hoạt động tôn giáo của chức sắc, nhà tu hành cũng có sự đổi mới. Trong nghị định 26/CP vấn đề này được quy định khá chặt chẽ, theo đó chức sắc, nhà tu hành khi thuyên chuyển phải được Chủ tịch Ủy ban nhân dân quản lý hành chính địa bàn nơi đi và nơi đến chấp thuận. Theo quy định mới tại pháp lệnh thì vấn đề thuyên chuyển được quy định khá thông thoáng, khi thuyên chuyển nơi hoạt động tôn giáo của chức sắc, nhà tu hành thì tổ chức tôn giáo có trách nhiệm thông báo với UBND cấp thuận nơi đi và đăng ký với UBND cấp huyện nơi đến. Một số ít trường hợp phải được sự chấp thuận của chính quyền nơi đến. Đó là những trường hợp vi phạm pháp luật về tôn giáo mà đã bị Chủ tịch UBND cấp tỉnh xử lý vi phạm hành chính hoặc đã bị xử lý hình sự thì khi thuyên chuyển phải được sự chấp thuận của UBND cấp tỉnh nơi đến. Với quy định này đã tạo điều kiện cho chức sắc, nhà tu hành được thuyên chuyển địa bàn hoạt động một cách dễ dàng, tự do hơn
- Người đi tu tại các cơ sở tôn giáo: Trước khi có Pháp lệnh, Nghị định 26 quy định việc tiếp nhận người nhập tu thực hiện theo quy định của Ban Tôn giáo Chính phủ (Điều 19). Hiện nay, Pháp lệnh khẳng định Người đi tu trên cơ sở tự nguyện, không ai được ép buộc hoặc cản trở. Đối với người chưa thành niên, phải được cha mẹ hoặc người giám hộ đồng ý. Khi nhận người vào tu, người phụ trách cơ sở tôn giáo có trách nhiệm đăng ký với Uỷ ban nhân dân cấp xã về danh sách người vào tu nhằm bảo đảm cho người dân thực hiện đầy đủ, đúng quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo của mình mà không gặp trở ngại.
- Tổ chức tôn giáo được mời tổ chức nước ngoài vào Việt Nam để tiến hành các hoạt động trao đổi, hợp tác quốc tế có liên quan đến tôn giáo; tham gia hoạt động tôn giáo ở nước ngoài của tổ chức tôn giáo; tham gia khoá đào tạo tôn giáo ở nước ngoài.
- Đối với hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo của người nước ngoài: Nghị định 26 không quy định, Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo quy định: Người nước ngoài khi vào Việt Nam được mang theo xuất bản phẩm tôn giáo và đồ dùng việc đạo để phục vụ nhu cầu của bản thân; được tạo điều kiện sinh hoạt tôn giáo tại cơ sở tôn giáo
như những tín đồ của Việt Nam; được mời chức sắc tôn giáo là người Việt Nam đến thực hiện lễ nghi tôn giáo cho mình.
- Nhà nước bảo hộ những tài sản hợp pháp thuộc cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo; tạo điều kiện trong việc quản lý, sử dụng đất có các công trình tín ngưỡng, tôn giáo cũng như việc sửa chữa, cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới các công trình thuộc cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo.
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của nhu cầu sử dụng nhà, đất của các tổ chức tín ngưỡng, tôn giáo, ngày 31 tháng 12 năm 2008, Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị 1940/2008/CT-TTg về nhà, đất liên quan đến tôn giáo. Chỉ thị yêu cầu "Cơ sở tôn giáo có nhu cầu chính đáng về nhà, đất để phục vụ cho hoạt động tôn giáo thì Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm xem xét, căn cứ vào chính sách tôn giáo của Nhà nước, quy hoạch, kế hoạch sử dụng và quỹ đất của địa phương, quyết định giao cho cơ sở tôn giáo diện tích nhà, đất theo đúng trình tự, thủ tục quy định của pháp luật [43].
- Tổ chức tôn giáo được tổ chức quyên góp, nhận tài sản hiến, tặng, cho trên cơ sở tự nguyện của tổ chức, cá nhân trong nước và tổ chức cá nhân nước ngoài theo quy định của pháp luật. Không lợi dụng danh nghĩa cơ sở, tổ chức tôn giáo để quyên góp, phục vụ lợi ích cá nhân hoặc những mục đích trái pháp luật. Trước khi có Pháp lệnh việc tổ chức quyên góp phải được Chủ tịch UBND cấp tỉnh cho phép (Điều 8 Nghị định 26), đến nay chỉ cần thông báo với UBND nơi tổ chức quyên góp (Điều 28 pháp lệnh).
- Việc xuất bản, in, phát hành các loại kinh, sách, báo, tạp chí và các xuất bản phẩm khác về tín ngưỡng, tôn giáo; kinh doanh, xuất khẩu, nhập khẩu văn hoá phẩm về tín ngưỡng, tôn giáo, sản xuất đồ dùng phục vụ hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo thực hiện theo quy định của pháp luật về xuất bản, pháp luật về xuất nhập khẩu văn hoá phẩm không thuộc phạm vi kinh doanh và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
- Tổ chức tôn giáo được Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện tham gia các hoạt động vì mục đích từ thiện, nhân đạo như: nuôi dạy trẻ em có hoàn cảnh đặc