Cập Nhật Và Sử Dụng Thông Tin Tín Dụng Để Hạn Chế Rủi Ro Tín Dụng Đối Với Doanh Nghiệp Tại Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam


Kể từ khi Luật các TCTD 2010 được ban hành, đến nay, chưa có một văn bản nào hướng dẫn cụ thể về vấn đề kiểm tra, kiểm soát và kiểm toán nội bộ của TCTD. Vì vậy, NHNN cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn giải thích rõ khái niệm “Hệ thống kiểm soát nội bộ” và quy định cụ thể trách nhiệm của các cấp lãnh đạo trong TCTD đối với hệ thống kiểm soát nội bộ theo nguyên tắc phù hợp với thông lệ quốc tế, để các TCTD có cơ sở xây dựng một hệ thống kiểm soát nội bộ đầy đủ, hiệu lực và hiệu quả, tiến tới xây dựng các mô hình quản trị ngân hàng hiện đại tại Việt Nam, chuẩn bị tốt cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

4.2.2.3. Phân tán rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp

Trong kinh doanh, đặc biệt là kinh doanh tiền tệ, rủi ro là điều khó tránh khỏi. Vấn đề là làm thế nào để tối thiểu hóa những rủi ro đó đồng thời đạt được mục tiêu lợi nhuận. Trong quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp của các NHTM có những biện pháp quản trị như: Phân tán rủi ro trong cho vay; thực hiện tốt việc thẩm định khách hàng doanh nghiệp và khả năng trả nợ; bảo hiểm tiền vay; phải có một chính sách tín dụng hợp lý và duy trì các khoản dự phòng để đối phó với rủi ro, chấp hành tốt trích lập dự phòng để xử lý rủi ro. Phân tán rủi ro chính là việc thực hiện nguyên tắc kinh điển trong kinh doanh “Không bỏ trứng vào một giỏ”.

Để phân tán rủi ro nhằm ngăn ngừa và hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng

đối với doanh nghiệp cần phải thực hiện một số giải pháp cụ thể sau:

Thứ nhất: Đa dạng hóa danh mục đầu tư tín dụng đối với doanh nghiệp

Quy mô của các NHTM phù hợp với giả thuyết “quá lớn nên không thể bị phá sản”, các NHTM có quy mô lớn chấp nhận các khoản cho vay với rủi ro hơn do mong đợi sự bảo vệ từ phía Chính phủ. Vì vậy, các NHTM có quy mô không nên tập trung các khoản cho vay với một số đối tượng như doanh nghiệp nhỏ và vừa hay các lĩnh vực rủi ro như bất động sản, chứng khoán mà nên đa dạng hóa danh mục đầu tư tín dụng. Đa dạng hóa danh mục đầu tư tín dụng có thể thực hiện thông qua việc tăng các Chi nhánh ngân hàng, cho phép tăng liên kết ngân hàng. Đồng thời đề ra mức tăng trưởng tín dụng hợp lý và cơ cấu lại các thời hạn tín dụng để giảm rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp. Đây là biện pháp tốt nhất, chủ động nhất trong việc phân tán rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp. Các NHTM nên chia nguồn tiền của mình vào nhiều loại hình đầu tư tín dụng, nhiều ngành nghề khác nhau cũng như nhiều khách hàng doanh nghiệp ở những địa bàn khác nhau. Điều này vừa mở rộng được phạm vi hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp của ngân hàng, khuyếch trương thanh thế, vừa đạt được mục đích phân tán rủi ro. Để thực hiện được điều này các ngân hàng cần vạch ra được một số chiến lược kinh doanh thích hợp trên cơ sở quán triệt một số vấn đề sau:


- Đầu tư vào nhiều ngành nghề kinh tế khác nhau để tránh được sự cạnh tranh của các ngân hàng khác trong việc giành giật thị phần trong phạm vi hẹp của một số ngành đang phát triển cũng như tránh gặp phải rủi ro do những chính sách của Nhà nước với mục đích hạn chế hoạt động của một số ngành nghề nhất định trong kế hoạch cơ cấu lại một số ngành nghề kinh tế.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.

- Đầu tư vào nhiều đối tượng doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, nhiều loại hàng hóa khác nhau, tránh tập trung cho vay doanh nghiệp sản xuất một số loại sản phẩm, đặc biệt là những loại sản phẩm không thiết yếu mà Nhà nước không khuyến khích hay những sản phẩm đã xuất hiện quá nhiều trên thị trường.

- Tránh cho vay quá nhiều đối với một khách hàng doanh nghiệp, luôn đảm bảo một tỷ lệ cho vay nhất định trong tổng số vốn hoạt động của khách hàng doanh nghiệp để tránh sự ỷ lại và rủi ro bất ngờ của doanh nghiệp đó. Hiện nay, các NHTM áp dụng quy chế cho vay theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN trong đó có nêu rõ “Tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng, trừ trường hợp đối với những khoản cho vay từ các nguồn vốn uỷ thác của Chính phủ, của các tổ chức và cá nhân. Trường hợp nhu cầu vốn của một khách hàng vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng hoặc khách hàng có nhu cầu huy động vốn từ nhiều nguồn thì các ngân hàng cho vay hợp vốn theo quy định của NHNN Việt Nam”.

Quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam - 22

Thời gian tới, kể từ ngày 15/3/2017, các NHTM sẽ áp dụng quy chế cho vay khách hàng doanh nghiệp theo Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của NHNN Việt Nam. Theo đó, Thông tư số 39 đã bỏ quy định về đảo nợ tại Quyết định số 1627 và quy định cụ thể một số nhu cầu vốn không được cho vay nhằm kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng. Đó là không được cho vay để trả nợ khoản nợ vay tại chính ngân hàng cho vay, trừ trường hợp cho vay để thanh toán lãi tiền vay phát sinh trong quá trình thi công xây dựng công trình, mà chi phí lãi tiền vay được tính trong dự toán xây dựng công trình được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Và không được cho vay để trả nợ khoản nợ vay tại ngân hàng khác để trả nợ khoản vay nước ngoài, trừ trường hợp cho vay để trả nợ trước hạn khoản vay đáp ứng đầy đủ các điều kiện là khoản vay phục vụ hoạt động kinh doanh, thời hạn cho vay không vượt quá thời hạn cho vay cồn lại của khoản vay cũ…

- Cho vay với nhiều loại thời hạn khác nhau đảm bảo sự cân đối giữa số vốn cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn, đảm bảo sự phát triển vững chắc và tránh rủi ro tín dụng do sự thay đổi lãi suất thị trường.

- Tạo lập một tỷ lệ thích hợp giữa cho vay bằng VNĐ và cho vay bằng ngoại tệ đảm bảo đáp ứng được nhu cầu vay vốn của khách hàng doanh nghiệp tránh được rủi ro tín dụng do sự thay đổi tỷ giá hối đoái.


Biện pháp đa dạng hóa danh mục đầu tư như đã nói ở trên có ưu điểm là giúp ngân hàng phân tán rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp một cách chủ động nhất, tuy nhiên, việc đa dạng hóa danh mục đầu tư tín dụng quá mức cũng sẽ có những nhược điểm như là: làm cho việc quản lý trở nên khó khăn, tốn nhiều công sức điều tra, thẩm định, phân tích, đánh giá khách hàng doanh nghiệp, làm tăng chi phí kiểm tra, giám sát…và làm giảm bớt cơ hội đạt lợi nhuận cao.

Thứ hai: Cho vay đồng tài trợ

Trên thực tế, có những doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn rất lớn mà một ngân hàng không thể đáp ứng được, đó thường là nhu cầu đầu tư cho các dự án lớn và khó xác định mức độ rủi ro có thể xảy ra. Trong trường hợp này, các ngân hàng cùng nhau liên kết để thẩm định dự án, cho vay và chia sẻ rủi ro đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ mỗi bên. Đây là một hình thức tín dụng chưa thực sự phổ biến đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam. Một phần do sự phưc tạp của hình thức này, một phần còn do vướng mắc trong việc thỏa hiệp giữa các ngân hàng về quyền lợi và trách nhiệm trong khi liên kết. Đây cũng chính là nhược điểm của biện pháp này.

Hiện nay, NHNN Việt Nam đã ra quy chế về vấn đề cho vay đồng tài trợ là tiền đề cơ sở về mặt pháp lý cho việc xúc tiến hoạt động đó. Để thực hiện có hiệu quả hình thức tín dụng này, các ngân hàng phải có ý thức hợp tác, đồng thời cần phải có một ngân hàng chủ trì cho việc thỏa hiệp giữa họ, vai trò này có thể giao cho NHNN hoặc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc thành phố thực hiện.

Thứ ba: Bảo hiểm tín dụng

Trong đời sống xã hội, “bảo hiểm” là một khái niệm thường gặp dùng để chỉ một trong những biện pháp hữu hiệu để phân tán rủi ro. Bảo hiểm tín dụng cũng là một biện pháp quan trọng nhằm san sẽ rủi ro trong hoạt động tín dụng đối với tín dụng của các ngân hàng. Bảo hiểm tín dụng có thể thực hiện dưới các hình thức như: Bảo hiểm cho hoạt động cho vay, bảo hiểm tài sản, bảo hiểm tiền vay. Tại Ngân hàng thương mại Việt Nam, có thể học hỏi một số hình thức bảo hiểm mà các nước đã thực hiện như sau:

- Khách hàng doanh nghiệp vay vốn tín dụng tham gia mua bảo hiểm tín dụng. Khi mà doanh nghiệp rơi vào tình trạng phá sản… không có khả năng trả nợ vay ngân hàng thì công ty bảo hiểm sẽ trả. Đây là biện pháp quản lý rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp cần quan tâm, đặc biệt trong điều kiện hoạt động của các ngân hàng Việt Nam. Cho đến nay, chỉ có một số ít ngân hàng Việt Nam sử dụng bảo hiểm tín dụng để quản lý phòng ngừa rủi ro cho mình.


- Ngân hàng trực tiếp mua bảo hiểm của các tổ chức bảo hiểm chuyên nghiệp và sẽ được bồi thường thiệt hại nếu gặp rủi ro mất vốn tín dụng.

- Bảo hiểm tài sản đảm bảo tiền vay

Ưu điểm của biện pháp sử dụng bảo hiểm tín dụng là khi rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp xảy ra thì nó có thể khắc phục một cách tốt nhất hậu quả của rủi ro đó. Tuy nhiên, nhược điểm của biện pháp này là do phải đóng một khoản phí bảo hiểm trước mắt trong khi đó nhiều khách hàng vay lại có xu hướng coi trọng lợi ích trước mắt hơn lợi ích lâu dài. Thêm vào đó, ngành bảo hiểm nước ta cũng chưa thực sự phát triển đạt đến mức độ tạo dựng được niềm tin cho doanh nghiệp nên nhiều doanh nghiệp cũng như ngân hàng không mấy hứng thú trong việc mua và sử sụng bảo hiểm tín dụng.

Như vậy, trong mọi hoạt động kinh doanh đều chứa đựng những rủi ro tiềm ẩn, nếu không chấp nhận rủi ro thì không thể tạo ra cơ hội đầu tư và kinh doanh mới. Hoạt động kinh doanh của NHTM cũng như các hoạt động kinh doanh khác không tránh khỏi những rủi ro. Do đó quản lý rủi ro là một yêu cầu tất yếu đặt ra trong quá trình tồn tại và phát triển của Ngân hàng. Vì thế để quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp có hiệu quả ngân hàng cần sử dụng một cách linh hoạt các biện pháp quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp, để đạt được những mục tiêu của ngân hàng cũng như hạn chế đến mức thấp nhất các rủi ro tín dụng có thể xảy ra.

4.2.2.4. Cập nhật và sử dụng thông tin tín dụng để hạn chế rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam

Báo cáo thông tin tín dụng thiết thực, có chất lượng cao, Trung tâm thông tin rủi ro tín dụng Quốc gia (CIC) ngày càng dành được sự tin tưởng của các TCTD, thực hiện tốt nhiệm vụ cung cấp thông tin, đáp ứng yêu cầu quản lý của NHNN đồng thời hỗ trợ, giảm thiểu rủi ro cho hoạt động tín dụng của các NHTM.

Có thể nói, hiện nay các báo cáo Thông tin tín dụng đối với doanh nghiệp như: Báo cáo quan hệ tín dụng, Báo cáo thông tin tài sản đảm bảo, Báo cáo thông tin thẻ tín dụng của Trung tâm thông tin tín dụng Quốc gia (CIC) - NHNN đã trở nên quá quen thuộc và là một phần không thể thiếu trong việc xét duyệt hồ sơ, chọn lọc khách hàng doanh nghiệp vay của các NHTM. Ngoài việc giúp NHTM nhận định được những doanh nghiệp vay có độ rủi ro cao theo lịch sử dư nợ của doanh nghiệp, lịch sử chậm thanh toán của doanh nghiệp, tránh việc trùng lặp 1 tài sản được đảm bảo cho nhiều hợp đồng tín dụng tại nhiều ngân hàng, các báo cáo của CIC còn đang cung cấp và ngày càng hoàn thiện hơn trong việc giúp cho NHTM nhận định những nguy cơ tiềm ẩn về


lĩnh vực kinh doanh sản xuất mà doanh nghiệp sử dụng nguồn vốn vay để đầu tư, thông qua việc so sánh các số liệu thống kê về lĩnh vực đầu tư, mức đầu tư theo hợp đồng tín dụng đối với nhu cầu thực tế của các ngành kinh tế và lĩnh vực tương ứng trên phạm vi cả nước. Báo cáo xếp hạng tín dụng doanh nghiệp là một kênh tham khảo rất tốt trong việc lựa chọn khách hàng doanh nghiệp vay với các phân tích chuyên sâu về các chỉ tiêu tài chính, phi tài chính và phương pháp xếp hạng, đánh giá theo tiêu chuẩn quốc tế.

Việc Thông tư 02/2013/TT-NHNN quy định về nhóm nợ cao nhất của cùng một doanh nghiệp tại nhiều TCTD được áp dụng vào thực tiễn đã thể hiện sự thận trọng và chặt chẽ hơn của NHNN trong việc phân loại nợ và tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro tương ứng đối với các NHTM. Trung tâm thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam (CIC) đã tổng hợp và cung cấp báo cáo về nhóm nợ này kể từ kỳ báo cáo quý I/2015.

Kể từ 06/7/2015, NHNN đã có công văn số 5057/NHNN-TTGSNH, yêu cầu các TCTD và chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải báo cáo thực hiện phân loại nợ theo quy định tại Thông tư 02/2013/TT-NHNN, định kỳ hàng tháng (trước là định kỳ hàng quý) cho đến khi có thông báo mới của NHNN. Như vậy, tình trạng nhóm nợ cao nhất sẽ được cập nhật và tổng hợp thường xuyên hơn, giúp cho TCTD nắm bắt tình hình của doanh nghiệp vay và có những giải pháp kịp thời hơn.

Hiện nay, hoạt động đăng ký tín dụng của Trung tâm thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam (CIC) tập trung vào việc đăng ký nhu cầu vay vốn, cung cấp thông tin tín dụng của khách hàng doanh nghiệp vay một cách tự nguyện, trên cơ sở đó CIC sẽ tiến hành đối chiếu hồ sơ, lịch sử tín dụng và chấm điểm tín dụng cho khách hàng vay, từ đó hỗ trợ các TCTD tìm kiếm doanh nghiệp vay tiềm năng. CIC triển khai Cổng kết nối thông tin khách hàng vay tại http ://creditscore.cic.org.vn.

Ngoài ra, việc đăng ký tín dụng tự nguyện cũng giúp doanh nghiệp vay biết được mức độ tín nhiệm và tình trạng tín dụng của bản thân để nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng phục vụ sản xuất kinh doanh, tiêu dùng; góp phần thúc đẩy tăng trưởng tín dụng; giảm thiểu thủ tục, hồ sơ, thời gian trong quá trình vay vốn; nâng cao tính công khai, minh bạch của thông tin doanh nghiệp đối với các TCTD; kết nối cung - cầu tín dụng; cải thiện chỉ số tiếp cận tín dụng quốc gia, chỉ số xếp hạng môi trường kinh doanh; thúc đẩy sản xuất - kinh doanh, góp phần phát triển kinh tế - xã hội đất nước.

Như vậy, với việc nắm bắt nhu cầu và mang đến những sản phẩm, báo cáo thông tin tín dụng thiết thực, có chất lượng cao, Trung tâm thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam (CIC) ngày càng dành được sự tin tưởng của các TCTD, thực hiện tốt nhiệm vụ cung cấp thông tin, đáp ứng yêu cầu quản lý của NHNN đồng thời hỗ trợ, giảm thiểu rủi ro cho hoạt động tín dụng của các NHTM.


Tính đến cuối năm 2016, Trung tâm thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam (CIC) nắm giữ trên 500.000 hồ sơ công ty. Theo quy định, tất cả các tổ chức tài chính chịu sự quản lý phải báo cáo cho CIC.Bên cạnh đó, một Trung tâm thông tin tín dụng khác được 11 ngân hàng thành lập từ năm 2007 và mới chỉ được cấp phép hoạt động từ tháng 3/2013. Tuy vậy, có một số bất cập cản trở tính hiệu quả của hoạt động báo cáo tín dụng, biểu hiện của thể là:

Một là, các TCTD khi từ chối cho vay căn cứ vào thông tin từ CIC không được thông báo lý do này cho người xin vay.

Hai là, không có cơ chế hiệu quả để buộc các tổ chức phải cập nhật thông tin một cách kịp thời và chất lượng cho CIC.

Ba là, từ trước tới nay chỉ có các tổ chức tài chính mới được làm thành viên trong hệ thống của CIC. Việc cho phép các đối tượng khác có thông tin số liệu phù hợp tham gia hệ thống có thể giúp cải thiện cơ sở dữ liệu của CIC về cả diện rộng và chiều sâu, từ đó giúp đỡ các doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể vay vốn với các điều kiện tốt hơn từ các chủ nợ phi tài chính.

Cuối cùng, cần đảm bảo giám sát đầy đủ toàn bộ hệ thống báo cáo tín dụng vì thế NHNN cần có vai trò là chủ thể giám sát báo cáo tín dụng nhằm hỗ trợ việc phát triển các trung tâm thông tin tín dụng an toàn, hiệu quả và tin cậy trong khi vẫn đảm bảo tính hiệu quả của CIC.

Do đó các cơ quan quản lý nên khuyến khích sự phát triển của trung tâm được cấp phép mới này, coi đó là nguồn thông tin tín dụng bổ sung quan trọng.Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam (CIC) là tổ chức sự nghiệp Nhà nước thuộc NHNN Việt Nam, có chức năng thu nhận, lưu trữ, phân tích, xử lý, dự báo thông tin tín dụng phục vụ cho yêu cầu quản lý nhà nước của NHNN; thực hiện các dịch vụ thông tin ngân hàng theo quy định của NHNN và của pháp luật.

Bên cạnh đó, Trung tâm thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam (CIC) còn có sứ mệnh chia sẻ thông tin giữa các tổ chức cấp tín dụng nhằm ngăn ngừa và hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng, góp phần đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng; Hỗ trợ tổ chức cấp tín dụng mở rộng và phát triển hoạt động tín dụng; Nâng cao khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng của doanh nghiệp vay, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

4.2.2.5. Tư duy và đối xử bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp

Lực lượng doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng, trong đó doanh nghiệp tư nhân là lực lượng rất quan trọng. Việt Nam cần phải có những thay đổi, cải cách để giúp doanh nghiệp tư nhân thực sự tham gia được vào chuỗi giá trị toàn cầu.


Thực tế hiện nay, doanh nghiệp tư nhân trong nước đang chịu nhiều bó buộc. Nhất là họ đang phải cạnh tranh trong môi trường kinh doanh mà có sự méo mó trong phân bổ tín dụng, đất đai và những ưu đãi thường ưu ái nhiều hơn cho khối doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp FDI. Cụ thể, doanh nghiệp nhà nước nhận được nhiều đầu tư từ ngân sách và một phần rất lớn tín dụng doanh nghiệp. Ước tính, khu vực doanh nghiệp này còn sử dụng khoảng 70% diện tích đất kinh doanh. Nhưng đổi lại, nhiều doanh nghiệp nhà nước hoạt động với năng suất thấp, thua lỗ hoặc lãi không đáng kể. Trong khi đó, sau hơn 30 năm xây dựng nền kinh tế thị trường, khu vực doanh nghiệp tư nhân của Việt Nam vẫn yếu và mong manh. 97% doanh nghiệp tư nhân trong nước là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Điều đáng lo hơn là khi các doanh nghiệp tư nhân gia tăng quy mô họ lại kém hiệu quả hơn. Nghiên cứu của WB cho thấy, doanh thu trên tài sản và doanh thu trên lao động của các doanh nghiệp có trên 300 nhân công lại thấp hơn đáng kể so với các doanh nghiệp có dưới 100 nhân công.

Dẫu vậy, riêng khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ với khoảng trên 500.000 doanh nghiệp (chiếm 97,5% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động), hằng năm đóng góp khoảng 40% GDP, thu hút 51% lực lượng lao động của cả nước, tạo thêm 1 triệu việc làm mới mỗi năm. Trong nền kinh tế, khu vực doanh nghiệp này hiện được đánh giá đóng vai trò tích cực là một trong bốn động lực tăng trưởng, có tốc độ phát triển nhanh chiếm tỷ trọng lớn; là nhân tố chủ đạo về tạo công ăn việc làm và thu nhập cho người lao động; là trụ cột của kinh tế địa phương, đóng góp quan trọng vào việc cung ứng hàng hóa, thu ngân sách; góp phần không nhỏ trong việc thực hiện chính sách an sinh xã hội của đất nước.

Những con số trên thể hiện sự mất cân đối trong phát triển của doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân, sự lép vế của doanh nghiệp tư nhân hiện rõ. Một trong những nguyên nhân chính của thực trạng trên, là do sự kiểm soát trực tiếp của nhà nước đối với các yếu tố đầu vào chính và sự can thiệp vào nền kinh tế bằng sở hữu và các biện pháp hành chính.

Khi hội nhập, nhất là hội nhập vào Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP), càng cần lưu ý vai trò của doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước tiếp tục chiếm ưu thế hơn doanh nghiệp tư nhân trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ, những công ty không có sức cạnh tranh trên một sân chơi bình đẳng. Các công ty này với điều kiện và cơ hội cần thiết, sẽ đạt mức tăng trưởng hiệu quả và bền vững hơn cho Việt Nam. Nếu thiếu đi các cơ hội và điều kiện phát triển đó, Việt Nam sẽ gặp phải nguy cơ các lĩnh vực sản xuất do nước ngoài phát triển sẽ trở thành lĩnh vực then chốt của nền kinh tế.


Hiện nay, tổng vốn nhà nước ở trong các doanh nghiệp nhà nước có giá trị khoảng 55 tỷ USD và tổng giá trị tài sản các doanh nghiệp nhà nước nắm giữ khoảng 130 tỷ USD. Ngoài hơn 800 DNNN chưa cổ phần hóa, Chính phủ đang giữ phần vốn chi phối tại nhiều doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa, những doanh nghiệp này chưa có những thay đổi thực chất về quản trị doanh nghiệp. Đặc biệt, quản trị, giám sát và cơ chế khuyến khích yếu đã để các doanh nghiệp nhà nước tiếp tục có những quyết định kinh doanh tồi khiến năng suất trung bình của nền kinh tế giảm đi. Nhà nước vẫn nắm độc quyền và ấn định giá ở những yếu tố đầu vào như năng lượng và đất. Điều này đang tạo ra các tín hiệu thị trường sai lệch về chi phí cơ hội của nguồn lực và do đó nhiều quyết định đầu tư không hiệu quả vẫn được thực hiện, ảnh hưởng xấu đến tổng thể của kết quả của nền kinh tế. Ở nhiều lĩnh vực khác, doanh nghiệp nhà nước vẫn có vai trò thống lĩnh và có thể dễ dàng bóp nghẹt cạnh tranh, ví dụ như trường hợp Vinafood I và Vinafood II ở thị trường xuất khẩu gạo.

Trong khi đó, đối với lực lượng doanh nghiệp tư nhân yếu kém của họ một phần do tính không ổn định và không nhất quán của môi trường thể chế. Theo khảo sát chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam thực hiện cũng cho thấy, chỉ 11% doanh nghiệp đồng ý rằng, chính sách, pháp luật của trung ương là có thể dự đoán được. Điều này gây ra chi phí lớn cho doanh nghiệp khi tìm hiểu và tuân thủ pháp luật. Đã thế, những thay đổi nhanh chóng trong chính sách thuế, ví dụ như thuế tài nguyên, làm cho nhiều doanh nghiệp phải chịu lỗ vì họ không thể điều chỉnh kế hoạch kinh doanh kịp thời.

Trước thực trạng này, khi hội nhập đang ngày càng gần, cạnh tranh ngày càng tăng, vì thế Việt Nam cần cải thiện hơn nữa tự do hóa kinh doanh; coi tự do kinh doanh là thiết yếu cho tăng trưởng và thịnh vượng. Phải ưu tiên chính sách cạnh tranh như một trụ cột trung tâm của kinh tế thị trường. Chính phủ nên thu hẹp các lĩnh vực Nhà nước cần đầu tư nhằm tạo ra không gian lớn hơn cho khu vực tư nhân phát triển, đặc biệt trong cung cấp dịch vụ và hạ tầng. Ở đâu đầu tư nhà nước là không cần thiết, Chính phủ nên rút lui hoàn toàn khỏi các hoạt động thương mại và đầu tư phần vốn thu lại vào những lĩnh vực cần đầu tư hơn, như hạ tầng, giáo dục, y tế. Tách bạch các doanh nghiệp nhà nước công ích ra khỏi các doanh nghiệp nhà nước thương mại. Buộc các doanh nghiệp nhà nước thương mại phải tuân thủ kỷ luật thị trường để tạo ra một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp tư nhân để họ hoạt động hiệu quả hơn. Suy cho cùng, điều này sẽ là cả doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân đều “khỏe”, mạnh lên và cạnh tranh hơn, đồng thời cũng tạo ra nhiều lựa chọn hơn cho người tiêu dùng Việt Nam.

Xem tất cả 232 trang.

Ngày đăng: 02/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí