đánh giá giá trị tài sản thế chấp phù hợp theo giá thị trường và theo quy định pháp lý, trong trường hợp này Nhà nước và ngân hàng đều phải cùng nhau chấp nhận thua thiệt đối với các khoản nợ xấu, Nhà nước có thể gánh chịu cho các doanh nghiệp số tiền lãi theo mức lãi suất hiện nay, Nhà nước sẽ trả thay một phần nợ gốc hoặc toàn bộ nợ gốc đối với các doanh nghiệp đó, bù lại các doanh nghiệp phải chuyển một phần thậm chí toàn bộ cổ phần sang cho Nhà nước sở hữu. Việc làm này nếu xét ngay ở thời điểm hiệntạichothấyNhànướcbịthiệtthòi,tuynhiênxétvềlâudàiđểvấnđềổnđịnh,phát triển kinh doanh cũng như về mặt xã hội thì nó lại có hiệu quả tốt hơn rất nhiều bởi lẽ sau vài năm, kinh tế vĩ mô ổn định và tăng trưởng bền vững trở lại, Nhà nước sẽ bán số cổ phần này cho các cổ đông khác trong nền kinh tế, thu hồi số tiền vốn mà mình đã bỏra.
4.2.1.6. Phát triển thị trường mua bán nợ
Kinh nghiệm của nhiều quốc gia cho thấy mua bán nợ chính là một trong những biện pháp quan trọng để thoát khỏi khủng hoảng. Khi xử lý được nợ xấu sẽ ổn định tài chính trong nước và nâng cao sức cạnh tranh cho các định chế tài chính. Nhiều nhà quản lý cho rằng nếu không có thị trường mua bán nợ, thì Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản quốc gia sẽ trở thành độc quyền. Mà độc quyền thì sẽ dẫn đến hàng loạt vấn đề về tính minh bạch, vấn đề lợi ích nhóm, hiệu quả hoạt động, tiêucực,…
Việc phát triển hoạt động thị trường mua bán nợ là hướng đi tích cực bởi nợ xấu cũng là một “hàng hóa”, đây là cách thức để tạo ra một hạ tầng trong xã hội để có điều kiện ứng phó với khủng hoảng nợ xấu trong tương lai. Để phát triển thị trường mua bán nợ, ở đây có 2 cấp độ thị trường, sơ cấp và thứ cấp: Sơ cấp là trực tiếp giao dịch giữa một bên là TCTD và các tổ chức xử lý nợ; thứ cấp là mua bán giữa các nhà đầu tư với nhau trên thị trường thứ cấp. 2 phạm trù khác hẳn nhau và cơ chế chính sách để thúc đẩy thị trường đó cũng khácnhau.
Việc xử lý nợ xấu ở Việt Nam nên kết hợp mô hình xử lý nợ xấu tập trung và phát triển thị trường mua bán nợ để làm sao xã hội hóa nguồn cầu trong đầu tư nợ xấu của Việt Nam. Nhà nước cũng cần có cơ chế “cây gậy và củ cà rốt” để phát triển thị trường mua bán nợ sơ cấp. Bởi nếu không có chế tài của NHNN để ép các TCTD phải có trách nhiệm hơn trong xử lý nợ xấu, họ vẫn để nợ xấu từ từ xử lý, mất 7-10 năm mới xong. Thí dụ, NHNN có thể đưa ra quy định trong vòng bao nhiêu năm đó, NHTM không giảm được tỷ lệ nợ xấu thì không được mở rộng hoạt động, yêu cầu trích lập dự phòng trên 100%. Thực tế có những quốc gia yêu cầu trích lập dự phòng 150-250%. Gần đây, NHNN cũng có động thái nhất định như không cho NHTM trả cổ tức nếu không trích đủ dự phòng rủiro.
Tại Việt Nam, để thị trường mua bán nợ hình thành, trước hết cần phát triển các công ty chuyên mua bán nợ và tài sản tồn động của các thành phần kinh tế. Thứ đến, phải có hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách vĩ mô tạo hành lang cho thị trường vận hành trôi chảy như những thị trường khác.
4.2.1.7. Tăng cường hiệu quả, hiệu lực công tác thanh tra, giám sát ngân hàng để các TCTD tuân thủ đúng quy tắc về hoạt động ngân hàng và đặc biệt là quy định về cấp tín dụng, phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro và quy định về an toàn tín dụng
Trên thực tế, các NHTM đã xây dựng hệ thống quản lý rủi ro nhưng mới ở bước ban đầu. Để có hệ thống quản lý rủi ro bài bản và chắc chắn, cần có nhiều thời gian vì để tuân thủ các nguyên tắc quản trị rủi ro của Basel 2 đòi hỏi chi phí khá cao thì NHNN cần phải xây dựng các tiêu chí để đánh giá được các chính sách và quy trình quản lý rủi ro do các NHTM xây dựng phù hợp với quy mô và mức độ phức tạp của từng NHTM; từng bước chuẩn hóa các quy trình nhằm nhận dạng, đo lường và kiểm tra, kiểm soát các loại rủiro.
Có thể bạn quan tâm!
- Chạy Mô Hình Pooled Ols Sau Khi Thêm Biến Lạm Phát Và Tăng Trưởng Kinh Tế
- Các Giải Pháp Tăng Cường Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Đối Với Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam
- Đẩy Nhanh Quá Trình Tái Cơ Cấu (Vòng 2) Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam
- Cập Nhật Và Sử Dụng Thông Tin Tín Dụng Để Hạn Chế Rủi Ro Tín Dụng Đối Với Doanh Nghiệp Tại Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam
- Hoàn Thiện Hệ Thống Xếp Hạng Tín Nhiệm Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam
- Tiếp Tục Phân Loại Nợ Xấu Và Tăng Cường Trích Lập Và Sử Dụng Quỹ Dự Phòng Rủi Ro Để Xử Lý Nợ Xấu
Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.
4.2.1.8. Tranh thủ sự ủng hộ của các định chế tài chính và tạo điều kiện cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia vào quá trình xử lý nợ xấu
Tham vấn kinh nghiệm của các định chế tài chính lớn (WB, IMF...) trong quá trình cải cách hệ thống tài chính, ngân hàng, đồng thời tranh thủ nguồn vốn của các tổ chức để thực hiện việc xử lý nợ xấu.
4.2.1.9. Tăng cường giám sát hoạt động của doanh nghiệp nhà nước
Chính phủ cần ban hành quy chế giám sát với các mục tiêu đánh giá thực trạng tài chính cũng như xem xét những rủi ro về mặt tài chính và đưa ra những cảnh báo từ phía cơ quan quản lý nhà nước cũng như những biện pháp mà bản thân doanh nghiệp đó để ngăn ngừa rủi ro, đảm bảo tài chính được lành mạnh và kinh doanh có hiệu quả.
Đẩy mạnh tái cơ cấu DNNN, khắc phục những yếu kém của hệ thống DNNN để hạn chế những tổn thất mà hệ thống này có thể gây ra cho nền kinh tế; không tiếp tục gia cố hay dồn thêm nguồn lực cho khu vực này, mà điều chỉnh để các nguồn lực được phân bổ đến các khu vực có năng suất cao hơn, hướng đến tạo ra một thị trường hiệuquảhơn,nhằmgiúpcáckhuvựckinhtếnăngđộngcóđiềukiệnpháttriểntốiưu.
Chính phủ cần có các biện pháp hạn chế các Tập đoàn kinh tế Nhà nước, các DNNN vươn sang các lĩnh vực khác, đặc biệt là lĩnh vực tài chính và bất động sản.
Việt Nam có thể áp dụng các giải pháp mà Hàn Quốc đã từng áp dụng thành công trong những năm 1997 – 2000 đó là “quy định một tỷ lệ % nhất định số cổ phần mà một công ty phi tài chính được phép nắm giữ trong một ngân hàng”. Ở Hàn Quốc hiện nay con số này là 4%. Bên cạnh đó, cần phải nâng cao hiệu quả đầu tư công và đầu tư công cần phải có tác động lan tỏa để hỗ trợ đầu tư tưnhân.
4.2.1.10. Phục hồi thị trường bất động sản và chứng khoán
Đây là giải pháp rất quan trọng, nếu không phục hồi được 2 thị trường này thì việc xử lý nợ xấu sẽ gặp khó khăn lớn và phải tốn kém nhiều chi phí. Ở các nước tư bản, người ta không có những khó khăn về thủ tục hành chính, thuế khóa thì phục hồi dựa chủ yếu vào chính sách tiền tệ, tức là kỳ hạn cho vay với những người mua nhà và hạ lãi suất cho vay xuống. Cần phải có bộ giải pháp để cứu thị trường bất động sản (ở phân khúc cao cấp cần phải giảm cung, không cấp phép mới, rút phép chủ đầu tư thiếu tiềm lực, thực hiện nhiều biện pháp kích cầu ở phân khúc nhà ở xã hội hay dành cho các đối tượng có thu nhập thấp, cải thiện mạnh mẽ thủ tục pháp lý; đặc biệt lưu ý phần tài sản đảm bảo là bất động sản, khuyến khích M&A chuyển nhượng dựán.
Tiếp tục thực hiện các chính sách ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát và tái cấu trúc nền kinh tế từ chiều rộng sáng chiều sâu nhằm tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
4.2.1.11. Cuối cùng NHNN cần nhanh chóng hoàn thiện khung pháp lý để các ngân hàng có căn cứ thực hiện xếp hạng tín dụng nội bộ, hướng theo thông lệ quốc tế, song song với việc xây dựng, hoàn thiện xếp hạng tín dụng nội bộ, cần có chính sách phát triển các đơn vị xếp hạng tín dụng độc lập làm cơ sở tham chiếu chung
Kinh nghiệm của nhiều nước trong khu vực cho thấy, việc phát triển các tổ chức xếp hạng tín dụng không do Nhà nước quản lý để hạn chế việc chi phối của tổ chức hay cá nhân làm sai lệch kết quả xếp hạng là rất quan trọng trong hoạt động tín dụng ngânhàng.
Nhanh chóng xử lý những bất ổn trong nội tại của một số ngân hàng, giám sát dòng tiền luân chuyển trong nội bộ ngân hàng. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản làm hệ thống ngân hàng luôn bất ổn và và tích tụ rủi ro hệ thống lớn. Khi giám sát được dòng vốn ra khỏi vòng luẩn quẩn bời một số ngân hàng, nợ xấu của các NHTM có điều kiện được xử lý, điểm nghẽn về vốn sẽ được khắc phục, việc tiếp cận vốn của doanh nghiệp sẽ dễ dànghơn.
Phải có biện pháp quyết liệt để xác định số thực về quy mô và cơ cấu của nợ xấu hiện nay, từ số liệu này mới có thể áp dụng các giải pháp cụ thể cho từng TCTD.
Xử lý nghiêm hành vi che dấu nợ xấu. Đồng thời sửa đổi, bổ sung về cách phân loại nợ, trích lập sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tíndụng.
Đối với những TCTD có quy mô lớn, ảnh hưởng nhiều tới sự an toàn của cả hệ thống cũng như nền kinh tế và an sinh xã hội, có khả năng phát triển tiếp, sau khi tự giải quyết nợ xấu vẫn còn ở mức cao sẽ được NHNN bơm vốn để hỗ trợ, dưới hình thức bỏ vốn nhưng lại được hưởng lãi suất cố định và ngân hàng sẽ rút vốn về khi TCTD đã phụchồi.
4.2.2. Nhóm giải pháp cụ thể
4.2.2.1. Xây dựng mô hình quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam
Mô hình quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp chính là hệ thống các mô hình bao gồm mô hình tổ chức quản trị rủi ro, mô hình đo lường rủi ro và mô hình kiểm soát rủi ro được xây dựng và vận hành một cách đầy đủ, toàn diện và liên tục trong hoạt động quản trị tín dụng của ngân hàng.
Mô hình quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp phản ánh một cách hệ thống các vấn đề về cơ chế, chính sách, quy trình nghiệp vụ nhằm thiết lập các giới hạn hoạt động an toàn và các chốt kiểm soát rủi ro trong một quy trình thực hiện nghiệp vụ; các công cụ đo lường, phát hiện rủi ro; các hoạt động giám sát sự tuân thủ và nhận diện kịp thời các loại rủi ro mới phát sinh và các phương án, biện pháp chủ động phòng ngừa, đối phó một khi có rủi ro xảy ra.
Hiện tại Việt Nam đang có hai mô hình phổ biến được áp dụng. Đó là mô hình quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp tập trung và mô hình quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp phân tán.
(1)Mô hình quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp tập trung
Mô hình này có sự tách biệt một cách độc lập giữa 3 chức năng: quản trị rủi ro, kinh doanh và tác nghiệp. Sự tách biệt giữa 3 chức năng nhằm mục tiêu hàng đầu là giảm thiểu rủi ro ở mức thấp nhất đồng thời phát huy được tối đa kỹ năng chuyên môn của từng vị trí cán bộ làm công tác tín dụng.
Điểm mạnh:
- Quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp một cách hệ thống trên quy mô toàn ngân hàng, đảm bảo tính cạnh tranh lâu dài;
- Thiết lập và duy trì môi trường quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp đồng bộ, phù hợp với quy trình quản lý gắn với hoạt động của các bộ phận kinh doanh nâng cao năng lực đo lường giám sát rủi ro;
- Xây dựng chính sách quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp thống nhất cho toàn hệ thống;
- Thích hợp với ngân hàng quy mô lớn.
Điểm yếu:
- Việc xây dựng và triển khai mô hình quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp tập trung này đòi hỏi phải đầu tư nhiều công sức và thời gian.
- Đội ngũ cán bộ phải có kiến thức cần thiết và biết áp dụng lý thuyết với thực tiễn.
(2) Mô hình quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp phân tán
Mô hình này chưa có sự tách bạch giữa chức năng quản trị rủi ro, kinh doanh và tác nghiệp. Trong đó, phòng tín dụng của ngân hàng thực hiện đầy đủ 3 chức năng và chịu trách nhiệm đối với mọi khâu chuẩn bị cho một khoản vay đối với khách hàng doanh nghiệp.
Điểm mạnh:
- Gọn nhẹ;
- Cơ cấu tổ chức đơn giản;
- Thích hợp với ngân hàng quy mô nhỏ.
Điểm yếu:
- Nhiều công việc tập trung hết một nơi, thiếu sự chuyên sâu;
- Việc quản trị rủi ro hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp đều theo phương thức từ xa dựa trên số liệu chi nhánh báo cáo lên hoặc quản lý gián tiếp thông qua chính sách tín dụng.
(3) Định hướng áp dụng mô hình quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp
Xuất phát từ đòi hỏi thực tiễn của hoạt động tín dụng, theo khuyến cáo của Ủy ban Basel và tuân thủ thông lệ quốc tế, căn cứ vào các điều kiện chung về pháp lý, thị trường, công nghệ, con người, mô hình các NHTM Việt Nam khuyến nghị nên áp dụng mô hình quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp tập trung. Cụ thể như sau:
- Tại Hội sở chính: Tách bạch chức năng ra quyết định tín dụng đối với khách hàng doanh nghiệp với chức năng quản trị tín dụng đối với doanh nghiệp trên cơ sở phân định trách nhiệm và chức năng rõ ràng giữa các bộ phận thẩm định, phê duyệt tín dụng, quản trị tín dụng, quản trị rủi ro tín dụng.
- Tại chi nhánh: Tiến hành tách các bộ phận, chức năng bán hàng (tiếp xúc khách hàng, tiếp thị…), chức năng phân tích tín dụng đối với doanh nghiệp (phân tích,
thẩm định, dự báo, đánh giá khách hàng doanh nghiệp …) và chức năng tác nghiệp (xử lý hồ sơ, theo dõi, giám sát khoản vay, thu nợ, thu lãi…).
Với mô hình này, bộ phận quan hệ khách hàng doanh nghiệp chịu trách nhiệm tìm kiếm, phát triển và chăm sóc khách hàng doanh nghiệp. Bộ phận này sẽ tìm hiểu nhu cầu của doanh nghiệp, hướng dẫn khách hàng doanh nghiệp hoàn thiện hồ sơ vay vốn, sau đó chuyển toàn bộ hồ sơ và các thông tin liên quan đến khách hàng doanh nghiệp cho bộ phận phân tích tín dụng. Bộ phận phân tích tín dụng doanh nghiệp kiểm tra thông tin, thu thập các thông tin bổ sung qua các kênh thông tin lưu trữ ngân hàng, hỏi tin qua Trung tâm thông tin rủi ro tín dụng Quốc gia Việt Nam (CIC), tìm hiểu trên các phương tiện thông tin đại chúng… Trên cơ sở thông tin đó, bộ phận phân tích tín dụng thực hiện phân tích, đánh giá toàn bộ các nội dung từ tình hình chung về khách hàng doanh nghiệp, tình hình tài chính, phương án, dự án vay vốn đến các nội dung về đảm bảo tiền vay. Bộ phận phân tích tín dụng trực tiếp báo cáo kết quả, phân tích đánh giá khách hàng doanh nghiệp lên người phê duyệt tín dụng. Kết quả phê duyệt tín dụng đối với doanh nghiệp sau đó sẽ được chuyển cho bộ phận phân tích tín dụng để lưu trữ thông tin đồng thời được chuyển cho bộ phận quan hệ khách hàng để thực hiện các khâu tiếp theo trong quy trình tín dụng.
4.2.2.2. Củng cố và hoàn thiện tiến tới xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ đáp ứng yêu cầu của Ngân hàng thương mại hiện đại
Hệ thống kiểm soát nội bộ có một vai trò quan trọng, quyết định sự thành bại của một doanh nghiệp nói chung và của một tổ chức tín dụng nói riêng. Cuối những năm 80, khi một loạt các công ty của Hoa Kỳ bị đổ vỡ, người ta đã xác minh được nguyên nhân chính của sự đổ vỡ là do hệ thống kiểm soát nội bộ của các công ty này yếu kém. Kể từ đó, khái niệm hệ thống kiểm soát nội bộ ra đời và tất cả các doanh nghiệp, đặc biệt là các ngân hàng hiện đại trên thế giới ngày càng quan tâm đến mức độ đầy đủ, tính hiệu lực và hiệu quả của hệ thống k3iểm soát nội bộ.
Vậy hệ thống kiểm soát nội bộ là gì? Theo định nghĩa của Viện Kiểm toán quốc tế, “Hệ thống kiểm soát nội bộ” là tập hợp bao gồm các chính sách, quy trình, quy định nội bộ, các thông lệ, cơ cấu tổ chức của ngân hàng, được thiết lập và được tổ chức thực hiện nhằm đạt được các mục tiêu của ngân hàng và đảm bảo phòng ngừa, phát hiện và xử lý kịp thời các rủi ro xảy ra. Hệ thống kiểm soát nội bộ được thiết lập nhằm các mục tiêu:
- Bảo đảm cho ngân hàng hoạt động tuân thủ pháp luật và các quy định, quy trình nội bộ về quản lý và hoạt động, và các chuẩn mực đạo đức do ngân hàng đặt ra;
- Đảm bảo mức độ tin cậy và tính trung thực của các thông tin tài chính và phi tài chính;
-Bảo vệ, quản lý và sử dụng tài sản và các nguồn lực một cách kinh tế và hiệu quả;
- Hỗ trợ thực hiện các mục tiêu do Ban lãnh đạo ngân hàng đề ra.
Hệ thống kiểm soát nội bộ bao gồm 5 cấu phần: (i) môi trường kiểm soát; (ii) hệ thống quản lý và đánh giá rủi ro; (iii) hoạt động kiểm soát; (iv) hệ thống thông tin và cơ chế trao đổi thông tin; (v) cơ chế giám sát hoạt động kiểm soát.
Môi trường kiểm soát là nền tảng cho toàn bộ các cấu phần của hệ thống kiểm soát nội bộ, bao gồm cơ cấu tổ chức, cơ chế phân cấp, phân quyền, các chính sách, thông lệ về nguồn nhân lực, đạo đức nghề nghiệp, năng lực, cách thức quản trị, điều hành của các cấp lãnh đạo.
Hệ thống quản trị và đánh giá rủi ro là quy trình định dạng và phân tích mọi rủi ro liên quan đến việc hoàn thành các mục tiêu của tổ chức tín dụng, cụ thể bao gồm (i) việc xác định mục tiêu, (ii) mức độ phù hợp của các mục tiêu, (iii) việc định dạng các rủi ro liên quan, (iv) đánh giá rủi ro, và (v) các biện pháp nhằm giảm thiểu rủi ro.
Hoạt động kiểm soát là các chính sách, quy trình, thông lệ được xây dựng nhằm đảm bảo thực hiện các kế hoạch, các yêu cầu do các cấp quản lý điều hành đặt ra và các quy trình giảm thiểu rủi ro liên quan. Hệ thống thông tin và cơ chế trao đổi thông tin là hệ thống hỗ trợ toàn bộ các cấu phần của hệ thống kiểm soát nội bộ thông qua việc đảm bảo các thông tin được nắm bắt đầy đủ và kịp thời trong toàn ngân hàng.
Cơ chế giám sát hoạt động kiểm soát là quá trình đánh giá chất lượng của hệ thống kiểm soát nội bộ do Tổng Giám đốc (Giám đốc) ngân hàng tổ chức thực hiện và do Bộ phận kiểm toán nội bộ của ngân hàng và/hoặc tổ chức kiểm toán độc lập bên ngoài thực hiện.
Hội đồng thành viên (Hội đồng quản trị) và Ban kiểm soát chịu trách nhiệm cuối cùng về mức độ đầy đủ, tính hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ thông qua một Bộ phận chuyên trách độc lập. Bộ phận này chính là Bộ phận kiểm toán nội bộ của ngân hàng. Chức năng cơ bản của Bộ phận kiểm toán nội bộ là thực hiện đánh giá độc lập về mức độ đầy đủ, tính hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ của ngân hàng, đồng thời đưa ra những khuyến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ.
Bên cạnh đó, hệ thống kiểm soát nội bộ còn được thường xuyên tự đánh giá. Công việc này do Tổng giám đốc của ngân hàng chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện.
Tự đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ có tác dụng phòng ngừa rủi ro và hỗ trợ đắc lực cho công tác quản lý rủi ro của ngân hàng.
Tuy nhiên, tại các TCTD Việt Nam, khái niệm “hệ thống kiểm soát nội bộ”chưa được hiểu một cách đúng đắn và đầy đủ. Hệ thống kiểm tra, kiểm soát, kiểm toán nội bộ của các TCTD Việt Nam được xây dựng và vận hành trên cơ sở Luật các tổ chức tín dụng ban hành năm 2010 và Quy chế về kiểm tra, kiểm toán nội bộ của các tổ chức tín dụng ban hành kèm theo Quyết định số 03/1998/QĐ-NHNN3 ngày 03/01/1998 của Thống đốc NHNN; Thông tư số 44/2011/TT-NHNN ngày 29/12/2011 quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài
Theo đó, các TCTD Việt Nam thiết lập một bộ phận chuyên trách, với tên gọi khác nhau (Ban kiểm tra nội bộ, Phòng kiểm tra nội bộ, Phòng kiểm tra, kiểm soát), chịu sự quản lý, điều hành của Tổng Giám đốc (Giám đốc) theo hệ thống ngành dọc tại trụ sở chính (Phòng, Ban) và tới các chi nhánh (tổ kiểm tra, kiểm soát hoặc bố trí một cán bộ chuyên trách làm công tác kiểm tra, kiểm soát, kiểm toán nội bộ). Về thực chất, bộ phận này làm chức năng kiểm toán và chịu sự quản lý của Tổng Giám đốc (Giám đốc), do vậy, các kết quả kiểm tra, kiểm toán khó có thể mang tính độc lập. Bên cạnh đó, chức năng kiểm soát nội bộ bị đánh đồng với chức năng kiểm toán nội bộ và mới chỉ dừng lại ở công tác hậu kiểm dưới hình thức tổ chức từng đợt kiểm tra. Vì vậy, những vấn đề phát hiện thường là những sai phạm đã phát sinh, do đó hạn chế tác dụng trong việc phát hiện, ngăn ngừa và quản lý rủi ro.
Như vậy, mô hình hiện tại về kiểm tra, kiểm soát và kiểm toán nội bộ của các TCTD Việt Nam không đảm bảo được chất lượng của hệ thống kiểm soát nội bộ. Cụ thể, việc phân định trách nhiệm giữa các cấp lãnh đạo trong các TCTD đối với hệ thống kiểm soát nội bộ chưa được rõ ràng, dẫn đến công tác tự đánh giá đối với hệ thống kiểm soát nội bộ chưa được thực hiện và bị xem nhẹ, đồng thời, công tác đánh giá độc lập đối với hệ thống kiểm soát nội bộ không đảm bảo tính độc lập.
Luật các TCTD số 47/2010/QH12 đã tách bạch hai chức năng kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ. Cụ thể, quy định nhiệm vụ kiểm toán nội bộ thuộc về Ban kiểm soát và quy định “Tổ chức tín dụng phải lập hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ thuộc bộ máy điều hành, giúp Tổng Giám đốc (Giám đốc) điều hành, thông suốt an toàn và đúng pháp luật mọi hoạt động nghiệp vụ của tổ chức tín dụng”. Tuy nhiên, nếu hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ của tổ chức tín dụng lại vẫn được hiểu và được thiết lập dưới hình thức một bộ phận chuyên trách, chịu sự quản lý, điều hành của Tổng Giám đốc (Giám đốc) như hiện nay lại là một sai lầm và lãng phí lớn.