Tiếp Tục Phân Loại Nợ Xấu Và Tăng Cường Trích Lập Và Sử Dụng Quỹ Dự Phòng Rủi Ro Để Xử Lý Nợ Xấu


10 giải pháp: Đánh giá lại chất lượng và khả năng thu hồi của các khoản nợ để có biện pháp xử lý thích hợp; tăng cường trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu; tiếp tục cơ cấu lại nợ; tiếp tục hỗ trợ vốn để khách hàng khắc phục khó khăn và phục hồi; bổ sung, hoàn thiện hồ sơ pháp lý tài sản bảo đảm; thu nợ và xử lý tài sản bảo đảm; hoán đổi nợ thành vốn; bán nợ xấu cho DATC thuộc Bộ Tài chính và VAMC thuộc NHNN; kiểm soát chặt chẽ và giảm chi phí hoạt động; hạn chế nợ xấu phát sinh trong tươnglai.

Trong quản trị rủi ro tín dụng thì chỉ tiêu nợ xấu là chỉ tiêu đo lường quan trọng nhất trong rủi ro tín dụng cũng như quản trị rủi ro tín dụng, nhất là đối với các doanh nghiệp khi mà các chỉ tiêu khác đã được phân nhóm và ổn định tương đồng nhau thì chỉ tiêu nợ xấu là thước đo trong hiệu quả tín dụng doanh nghiệp và là chỉ tiêu quan trọng trong việc quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp.

Tuy nhiên, để các biện pháp trên thực hiện có hiệu quả, các NHTM cần thực hiện tốt các công việc sau đây:

4.2.3.1. Tiếp tục phân loại nợ xấu và tăng cường trích lập và sử dụng quỹ dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu

Nợ xấu ở các NHTM chính là nợ không có khả năng chi trả của khách hàng mà phần lớn là doanh nghiệp, nợ xấu nằm trọng mạng lưới nợ của các doanh nghiệp, mỗi doanh nghiệp dang nợ ngân hàng lại nằm trong mạng lưới nợ lẫn nhau. Do đó nếu xử lý không khéo sẽ gây sự sụp đổ dây chuyền. Vì thế, cần phải có giải pháp cụ thể cho từng loại nợ xấu, từng loại doanh nghiệp để đảm bảo xử lý tốt nợ xấu. Bên cạnh đó, khách hàng vay vốn cũng phải tự củng cố, chấn chỉnh hoạt động, nâng cao năng lực tài chính, quản trị, tăng cường ứng dụng công nghệ và khả năng cạnh tranh, cơ cấu lại nợ, tháo gỡ khó khăn sản xuất kinh doanh, đặc biệt là các DNNN, đẩy mạnh thoái vốn đầu tư ngoài ngành của các doanh nghiệp.

Việc bổ sung vốn dự phòng sẽ tạo điều kiện cho các ngân hàng mạnh tay đòi nợ, có thời gian thanh lý tài sản thế chấp ở mức giá hợp lý, tạo nên nguồn thu cho những năm sau.

Phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro

Tiếp theo Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN ngày 3 tháng 02 năm 2005 về quy chế cho vay của tổ chức tín dụng (TCTD) đối với khách hàng, NHNN đã ban hành một loạt quyết định và chỉ thị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng và kiểm soát rủi ro, trong đó có Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22 tháng 4 năm 2005 về phân


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.

loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD, nay là Văn bản hợp nhất số 22/VBHN-NHNN ngày 04/6/2014 về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động của TCTD.

Phạm vi áp dụng

Quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam - 24

Theo Văn bản số 22/VBHN-NHNN, tất cả các TCTD hoạt động tại Việt Nam (trừ Ngân hàng Chính sách xã hội) phải thực hiện việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng. Tuy nhiên, khác với các quy định trước đây, Văn bản này cho phép chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam được áp dụng chính sách trích lập dự phòng của ngân hàng nước ngoài, nếu được NHNN chấp thuận bằng văn bản.

Mục đích của việc sử dụng dự phòng là để bù đắp tổn thất đối với các khoản nợ của TCTD. Dự phòng rủi ro chỉ tính theo dư nợ gốc của khách hàng và được hạch toán vào chi phí hoạt động của tổ chức tín dụng.

4.2.3.2. Chứng khoán hóa các khoản nợ khó đòi

Việc chứng khoán hóa được thực hiện theo các phương pháp cụ thể: Với các doanh nghiệp có lịch sử quản trị kinh doanh tốt, đang gặp khó khăn về nghĩa vụ trả nợ gốc do tình hình kinh tế khó khăn, do các dự án đầu tư đang triển khai chưa đi vào hoạt động,… thì có thể chuyển một phần nợ gốc thành trái phiếu trung hạn, nhằm hỗ trợ thanh khoản và giúp các doanh nghiệp tồn tại phát triển. Chuyển nợ quá hạn, nợ xấu thành cổ phần và chuyển vị thế các ngân hàng đang là chủ nợ thành cổ đông lớn, cổ đông nắm đa số cổ phần nếu nhận thấy sau tái cấu trúc doanh nghiệp có khẳ năng tồn tại và phát triển.

Đây là hình thức xử lý khá phổ biến theo thông lệ quốc tế. Đối với Việt Nam, từ trước tới nay đã có rất nhiều trường hợp thành công không những cứu được doanh nghiệp khỏi nguy cơ giải thể phá sản mà còn bảo toàn được nguồn vốn của các NHTM. Tuy nhiên, để tiến trình chứng khoán hóa được thành công, các NHTM cần tích cực nâng cao tính cộng đồng, phối hợp cùng nhau để xử lý nợ xấu. Các NHTM cần tích cực sử dụng các công ty con của mình như công ty quản lý mua bán nợ, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ tham gia chủ động tích cực và tiến trình chứng khoán hóa.

4.2.3.3. Minh bạch hóa hệ thống thông tin

Để thực hiện tốt việc minh bạch hóa thông tin, tránh tình trạng các ngân hàng vì muốn “làm đẹp” con số công bố để thu hút khách hàng mà có thể dẫn đến tình trạng


gian lận, công bố thông tin không chính xác theo hướng có lợi cho mình, cần phải có một tổ chức độc lập, có vai trò khai thác thông tin, kiểm định, kiểm soát thông tin từ phía các NHTM. Ngoài ra, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc giám sát lĩnh vực tài chính, tăng tính minh bạch và ổn định của hệ thống tài chính, cũng như tăng cường kỷ luật thị trường, NHNN cũng triển khai và thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ “Bộ chỉ số lành mạnh tài chính” (Financial Soundness Indicators: FSIs) do Quỹ Tiền tệ Quốc tế đã xây dựng và phổ biến.

4.2.3.4. Hoàn thiện cơ chế quản trị nội bộ

Các NHTM cần hoàn thiện cơ chế quản trị nội bộ đảm bảo chỉ có những người có thẩm quyền và có trách nhiệm trong ngân hàng mới được ra các quyết định và có sự giám sát chặt chẽ để đảo bảo không có xung đột lợi ích, thông đồng vì lợi ích nhóm.

4.2.3.5. Hoàn thiện cơ chế và nâng cao hiệu quả hệ thống kiểm soát nội bộ

Một trong những mục tiêu quan trọng của cơ cấu lại ngân hàng tại Việt Nam hiện nay là đảm bảo hệ thống ngân hàng hoạt động lành mạnh, an toàn và sử dụng các nguồn lực có hiệu quả. Do đó, một trong số các vấn đề cần giải quyết tốt là tăng cường, nâng cao hiệu quả của công tác quản trị rủi ro, mà cụ thể là củng cố hệ thống kiểm soát nội bộ đi đôi với tăng cường quản lý rủi ro trong các NHTM. Mặt khác, trong điều kiện thị trường tài chính Việt Nam đang hội nhập quốc tế sâu rộng thì nhiệm vụ kiểm soát nội bộ và quản lý rủi ro trong các NHTM càng phải được coi trọng hơn bao giờ hết.

Theo Thông tư số 44/2/11/TT-NHNN ngày 29/12/2011 của Thống đốc NHNN quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ của NHTM thì một trong những nhiệm vụ rất quan trọng của công tác kiểm soát nội bộ là bảo đảm cho việc phòng ngừa, phát hiện, xử lý kịp thời rủi ro qua đó đạt được yêu cầu đề ra về kinh doanh của NHTM.

4.2.3.6. Tập trung xử lý nợ xấu theo Nghị quyết số 42/2017/QH14

Ngày 21/6/2017, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về thí điểm xử lý nợ xấu của các NHTM. Nghị quyết này có hiệu lực trong 05 năm từ ngày 15/8/2017. Nghị quyết 42/2017/QH14 cho phép áp dụng nhiều chính sách mới (so với pháp luật hiện hành) về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu, góp phần tạo lập cơ sở pháp lý thuận lợi hơn cho việc xử lý nợ xấu. Cụ thể như:

- Về phạm vi điều chỉnh: Nghị quyết 42/2017/QH14 triển khai thí điểm một số chính sách về xử lý nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu NHTM, chi nhánh


ngân hàng nước ngoài, tổ chức mà Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ do Chính phủ thành lập để xử lý nợ xấu của NHTM (VAMC). Đồng thời, cho phép áp dụng các quy định tại Nghị quyết để xử lý nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu tại ngân hàng chính sách. Bên cạnh đó, để xác định rõ phạm vi điều chỉnh, Nghị quyết 42/2017/QH14 cũng quy định cụ thể về tiêu chí, phạm vi, cách thức xác định một khoản nợ là nợ xấu…

- Về nguyên tắc xử lý nợ xấu: Nghị quyết 42/2017/QH14 quy định, phải bảo đảm 04 nguyên tắc xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu: (1) Bảo đảm công khai, minh bạch, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của NHTM, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan; (2) Phù hợp với cơ chế thị trường trên nguyên tắc thận trọng, bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền và giữ vững sự ổn định, an toàn hệ thống; (3) Không sử dụng ngân sách nhà nước để xử lý nợ xấu; (4) Cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật để xảy ra nợ xấu và trong quá trình xử lý nợ xấu phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.

- Về bán nợ xấu, tài sản bảo đảm thấp hơn giá trị khoản nợ: Để tháo gỡ vướng mắc, e ngại bị xử lý về trách nhiệm khi bán nợ xấu, tài sản bảo đảm, Nghị quyết 42/2017/QH14 cho phép TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC được bán nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu công khai, minh bạch, theo quy định của pháp luật, giá bán phù hợp với giá thị trường, có thể cao hơn hoặc thấp hơn dư nợ gốc của khoản nợ. Quy định này nhằm khẳng định rõ hơn về quyền của người bán, kể cả việc bán thấp hơn dư nợ gốc của khoản nợ.

4.2.3.7. Tiếp tục bán nợ cho VAMC, đánh giá hiệu quả tác dụng và thời gian tồn tại của VAMC

- Về mua, bán nợ xấu của VAMC: Nghị quyết 42/2017/QH14 đã cho phép VAMC thực hiện các hoạt động mua bán nợ như sau:

+ Mở rộng các khoản nợ được mua bán của VAMC: Hiện nay, VAMC chỉ được mua nợ xấu hạch toán trong bảng. Quy định này hạn chế đối tượng các khoản nợ xấu được mua bán theo giá thị trường. Do vậy, Nghị quyết 42/2017/QH14 cho phép VAMC được mua các khoản nợ xấu đã sử dụng dự phòng rủi ro đang hạch toán ngoài bảng và chuyển đổi các khoản nợ xấu mà VAMC đã mua bằng trái phiếu đặc biệt sang mua theo giá trị thị trường.

Đồng thời, việc cho phép chuyển khoản nợ xấu đã mua bằng trái phiếu đặc biệt sang mua bán theo giá trị thị trường, qua đó giúp tạo lập thị trường mua bán nợ theo giá thị trường, bảo đảm nguyên tắc thị trường trong xử lý nợ xấu.


+ Bổ sung đối tượng được bán nợ: Nghị quyết 42/2017/QH14 đã bổ sung quy định cho phép VAMC được bán nợ xấu cho các tổ chức, cá nhân bao gồm cả pháp nhân không có chức năng kinh doanh mua, bán nợ. Quy định này của Nghị quyết 42/2017/QH14 khắc phục bất cập giới hạn chủ thể được mua nợ của VAMC tại Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp và bảo đảm quyền bình đẳng trong hoạt động xử lý nợ của VAMC như các NHTM.

+ Bổ sung thêm phương thức mua bán nợ theo giá thị trường của VAMC. Cụ thể, Nghị quyết 42/2017QH14 cho phép VAMC được thỏa thuận với TCTD Việt Nam:

(i) Mua khoản nợ xấu với giá mua bằng giá trị định giá của tổ chức định giá độc lập;

(ii) Xử lý, bán, thu hồi nợ theo quy định của pháp luật và phân chia phần giá trị còn lại của số tiền thu hồi được từ khoản nợ xấu này sau khi trừ giá mua và các chi phí xử lý.

- Về xử lý tài sản bảo đảm là dự án bất động sản: Để khắc phục bất cập quy định tại Điều 49 Luật Kinh doanh bất động sản (BĐS) về điều kiện chuyển nhượng dự án BĐS không phù hợp với việc xử lý tài sản bảo đảm là dự án BĐS, tạo cơ sở pháp lý cho bên nhận thế chấp xử lý được tài sản bảo đảm là các dự án BĐS, Nghị quyết 42/2017/QH14 cho phép NHTM, VAMC được chuyển nhượng tài sản bảo đảm là dự án bất động sản khi có đầy đủ các điều kiện sau đây: (i) Dự án đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt theo quy định của pháp luật; (ii) Có quyết định giao đất, cho thuê đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; (iii) Dự án không có tranh chấp đã được thụ lý chưa giải quyết hoặc đang giải quyết tại Tòa án có thẩm quyền về quyền sử dụng đất; không đang bị kê biên để bảo đảm thi hành án hoặc để chấp hành quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; (iv) Không có quyết định thu hồi dự án, thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Đặc biệt, để bảo đảm quyền lợi của các bên liên quan, Nghị quyết 42/2017/QH14 quy định bên nhận chuyển nhượng dự án phải: (i) Đáp ứng điều kiện theo quy định của pháp luật về kinh doanh BĐS; (ii) Kế thừa các quyền, nghĩa vụ của chủ đầu tư dự án và tiến hành các thủ tục để tiếp tục thực hiện dự án theo quy định của pháp luật về đầu tư, pháp luật về xây dựng.

- Về bán nợ xấu có tài sản bảo đảm đang bị kê biên: Nghị quyết 42/2017/QH14 cho phép NHTM được quyền bán nợ xấu mà khoản nợ xấu đó có tài sản bảo đảm đang bị kê biên cho VAMC, doanh nghiệp có chức năng kinh doanh mua, bán nợ. Tuy nhiên, để bảo đảm quyền lợi của các bên liên quan, các NHTM có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, trung thực thông tin về tình trạng bị kê biên của tài sản bảo đảm trước khi thực hiện mua, bán khoản nợ xấu…


Nhằm đảm bảo việc áp dụng các quy định trên phù hợp Nghị quyết số 42/2017/QH14 cũng đã quy định rõ về việc áp dụng pháp luật trong xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm như sau:

- Việc xử lý nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của NHTM, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC được áp dụng theo quy định của Nghị quyết 42/2017/QH14. Trường hợp Nghị quyết không có quy định thì áp dụng theo quy định của pháp luật hiện hành.

- Trường hợp có quy định khác nhau giữa Nghị quyết 42/2017/QH14 và luật khác về cùng một vấn đề trong xử lý nợ xấu và xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu thì áp dụng quy định của Nghị quyết 42/2017/QH14.

Đồng thời, Nghị quyết 42/2017/QH14 cũng đảm bảo cơ chế xử lý chuyển tiếp sau khi Nghị quyết này hết hiệu lực thi hành, cụ thể gồm: (i) Thỏa thuận giữa VAMC với NHTM quy định tại Khoản 3 Điều 6 của Nghị quyết 42/2017/QH14 đã có hiệu lực trong thời hạn Nghị quyết có hiệu lực được tiếp tục thực hiện cho đến khi hết thời hạn của thỏa thuận đó; (ii) NHTM, VAMC được tiếp tục thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo quy định tại Điều 7 của Nghị quyết 42/2017/QH14 trong trường hợp đã thực hiện việc công khai thông tin theo quy định tại Khoản 3 hoặc Khoản 4 Điều 7 trong thời gian Nghị quyết có hiệu lực; (iii) Tòa án tiếp tục áp dụng thủ tục rút gọn theo quy định tại Điều 8 của Nghị quyết 42/2017/QH14 đối với vụ án đã được thụ lý trong thời gian Nghị quyết có hiệu lực..

Các ngân hàng cũng phải phối hợp với VAMC để thống nhất áp dụng các biện pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong việc xử lý các khoản nợ xấu và tài sản đảm bảo của các khoản nợ đã bán cho VAMC.

Đồng thời tích cực tìm kiếm các đối tác mua nợ đối với các khoản nợ đã bán cho VAMC và được VAMC ủy quyền bán nợ; tập trung nguồn lực đẩy nhanh tiến độ trích lập dự phòng đối với nợ xấu đã bán cho VAMC được thanh toán bằng trái phiếu đặc biệt nhằm thực hiện tất toán trái phiếu trước hạn hoặc đúng thời hạn theo quy định; xem xét, đẩy mạnh hoạt động mua bán nợ xấu theo cơ chế thị trường.

Ngoài ra cần lưu ý truyền thông đến khách hàng đang có nợ xấu để khách hàng hiểu rõ quyền lợi hợp pháp của ngân hàng trong việc xử lý nợ cũng như trách nhiệm trả nợ của khách hàng đối với khoản nợ vay.

Song song đó, ngân hàng phải nâng cao chất lượng tín dụng, thực hiện các biện pháp phòng ngừa, hạn chế tối đa nợ xấu phát sinh cũng như thực hiện nghiêm việc báo cáo định kỳ về cho Ngân hàng Nhà nước.


Mới đây Ngân hàng Nhà nước cũng đã đặt chỉ tiêu cụ thể với Công ty quản lý tài sản các tổ chức tín dụng (VAMC) trong năm 2018 phải xử lý tối thiểu 140.000 tỉ đồng nợ xấu đã mua, đồng thời VAMC cũng phải hoàn thành mua nợ xấu theo giá trị thị trường tổi thiểu 6.600 tỉ đồng trong năm nay.

Từ khi thành lập đến hết 31-12-2017, VAMC đã thực hiện mua được 26.221 khoản nợ của 16.269 khách hàng tại 42 tổ chức tín dụng, với tổng dư nợ gốc nội bảng là 307.932 tỉ đồng, giá mua nợ là 277.755 tỉ đồng. VAMC cũng đã ký hợp đồng với 5 tổ chức tín dụng để mua nợ theo giá thị trường đối với 6 khách hàng với tổng giá mua nợ là 3.142,07 tỉ đồng.

- Đánh giá hiệu quả tác dụng và thời gian tồn tại của VAMC:

+ Việc thành lập VAMC là sáng tạo mới, riêng có của Chính phủ, NHNN Việt Nam vừa tháo gỡ khó khăn khơi thông dòng vốn của NHTM và các thành phần kinh tế, trong đó có doanh nghiệp chiếm tỷ trọng lớn. Đây như một công cụ chủ chốt để xử lý nợ xấu trong giai đoạn nợ xấu của Việt Nam là khá nghiêm trọng, các NHTM không thể tự xử lý được mà cần phải có sự can thiệp của Chính phủ;

+ VAMC là mắt xích quan trọng giúp NHTM trong việc giải quyết vấn đề thanh khoản, làm sạch bảng cân đối kế toán, giúp các NHTM tháo gỡ nợ xấu đủ chuẩn để tiếp tục huy động vốn và cho vay nền kinh tế;

+ Theo điều lệ tổ chức và hoạt động của VAMC tại Quyết định số 1590/QĐ- NHNN ngày 22/7/2013, theo đó VAMC mua lại nợ xấu của các NHTM theo hai cách:

(1) mua theo giá thị trường bằng tiền mặt (mua đứt bán đoạn); (2) là mua theo giá sổ sách (giá ghi sổ), không được trả bằng tiền mặt được trả bằng trái phiếu đặc biệt. Việc xử lý nợ xấu này không dùng vốn ngân sách như Mỹ, Hàn Quốc… mà đưa dần vào chi phí các NHTM bằng cách trích dự phòng rủi ro trong 5 năm.

VAMC không sử dụng vốn ngân sách để xử lý nợ xấu, nhưng VAMC được Nhà nước cấp cho vốn điều lệ là 500 tỷ đồng, VAMC có trách nhiệm phải bảo toàn vốn và sinh lời, nếu không kinh doanh tốt sẽ mất vốn.

+ Theo Nghị quyết 42/2017/QH14, VAMC được bán nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu công khai, minh bạch theo quy định của pháp luật, giá bán phù hợp với giá thị trường, có thể cao hoặc thấp hơn dư nợ gốc của khoản nợ. Còn đối với NHTM vẫn trích đủ dự phòng rủi ro chia cho 5 năm bởi nếu chưa trích lập dự phòng rủi ro xong thì các NHTM chưa thể bán nợ xấu theo giá thị trường được. Khi các NHTM trích lập dự phòng rủi ro tương đối, hành lang pháp lý đầy đủ thì thị trường mua bán nợ sẽ phát triển tự nhiên. Đến năm 2018-2019, khi thị trường dần hình thành, việc mua bán nợ triệt để hơn, hiệu quả hơn.


Mặt khác, VAMC được phép phát hành trái phiếu đặc biệt để mua nợ xấu từ các NHTM. Đây là một loại trái phiếu chưa có tiền lệ ở Việt Nam cũng như không được sự bảo lãnh từ Chính phủ và các NHTM bán nợ nhận trái phiếu đặc biệt có thời hạn trên 5 năm không được chia cổ tức để tạo nguồn xử lý nợ xấu cho đến khi trái phiếu đặc biệt có thời hạn trên 5 năm được thanh toán. Khi trái phiếu đưa vào lưu thông nhưng thực chất là không có hàng hóa, chỉ tăng cung tiền lên. VAMC không có quyền chủ động xử lý những khoản nợ xấu mua bằng trái phiếu đặc biệt, không có nhiều vai trò định đoạt tài sản bảo đảm các khoản nợ xấu đã mua. Đó là một hạn chế lớn của VAMC trong quá trình triển khai và hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ của mình.

+ Ngoài ra VAMC là mô hình mới riêng có, đặc thù của ngân hàng Việt Nam nên gặp nhiều khó khăn trong quá trình triển khai hoạt động bởi chưa có được bài học kinh nghiệm từ các nước trên Thế giới

+ VAMC tồn tại cùng với việc xử lý nợ xấu, nợ xấu càng xử lý nhanh cũng như Nghị quyết số 42/2017/QH14 thì vai trò VAMC sẽ kết thúc hoặc chuyển hướng mục tiêu khác.

Dù áp dụng bất cứ giải pháp nào trong số các giải pháp trên, thì cũng cần lưu ý rằng việc giải quyết nợ xấu không phải là một việc riêng của NHNN và hệ thống NHTM. Đây là việc liên quan đến toàn bộ nền kinh tế, đòi hỏi sự tham gia và trách nhiệm của toàn bộ các cơ quan nhà nước khác, bao gồm cả Chính phủ và Quốc hội cùng với hệ thống doanh nghiệp nói chung... Đồng thời, đây cũng là quá trình huy động nguồn lực từ bên ngoài hệ thống ngân hàng để giúp hệ thống lấy lại cân bằng, xử lý nợ xấu và phục hồi chức năng trung gian tài chính.

4.2.4. Nhóm giải pháp hỗ trợ

4.2.4.1. Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế

Theo thống kê của NHNN, tổng số nhân lực ngành ngân hàng đến nay là

175.247 người (tăng gấp 2,59 lần so với năm 2000), trong đó số người làm việc trong hệ thống NHNN là hơn 6.000 người, số còn lại được phân bổ cho các NHTM, quỹ tín dụng nhân dân.

Nhìn chung cán bộ ngân hàng có trình độ cao hơn so với một số ngành khác. Trình độ đại học và trên đại học chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu lao động, đặc biệt là khối NHTM Cổ phần. Cơ cấu nhân lực theo độ tuổi tương đối trẻ: Lao động có độ tuổi dưới 30 chiếm 60,11%; từ 30-50 tuổi chiếm 35,05% và trên 50 tuổi trở lên chiếm 4,84%.

Tuy nhiên, thời gian qua, nhân lực chất lượng cao cho ngành tài chính ngân hàng luôn là bài toán khó. Trình độ và tính chuyên nghiệp của một số cán bộ nhân viên

Xem tất cả 232 trang.

Ngày đăng: 02/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí