Hoàn Thiện Hệ Thống Xếp Hạng Tín Nhiệm Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam


Hơn nữa, nền kinh tế Việt Nam được Đảng và Nhà nước xác định là “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, đã là nền kinh tế thị trường thì các doanh nghiệp phải được đối xử bình đẳng để cùng phát triển hướng tới một đất nước phát triển. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhiều lần nói cần xóa bỏ tư duy ưu đãi ưu tiên doanh nghiệp nhà nước, tiếp tục cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, xử lý tồn tại yếu kém ở các doanh nghiệp và tập đoàn nhà nước. Theo đó, các NHTM Việt Nam cũng cần tư duy như vậy, tức là bình đẳng trong mối quan hệ tín dụng đối với các doanh nghiệp nhất là về lãi suất, về tài sản thế chấp và về báo cáo tài chính kế toán. Có như vậy, NHTM mới thông qua đòn bảy tín dụng bình đẳng đến với các loại hình doanh nghiệp tạo động lực về nguồn vốn để doanh nghiệp đi lên và phát triển, một mặt góp phần tăng trưởng kinh tế tạo công ăn việc làm cho xã hội, một mặt hạn chế rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp trong môi trường tín dụng hiện nay.

4.2.2.6. Hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín nhiệm khách hàng doanh nghiệp tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam

Khách hàng doanh nghiệp có báo cáo tài chính trong hai năm mới đủ điều kiện xếp hạng tín dụng nội bộ, vì vậy ngân hàng cần sớm hoàn thiện các tiêu chí để tiến tới xây dựng chương trình xếp hạng tín dụng nội bộ đối với đối tượng là khách hàng doanh nghiệp không có báo cáo tài chính trong 2 năm. Việc hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ sẽ giúp ngân hàng hạn chế rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp tốt hơn vì:

- Hệ thống này sẽ giúp ngân hàng xác định một cách hợp lý, chính xác ở mức độ cao nhất lượng tổn thất tín dụng theo từng dòng sản phẩm hoặc lĩnh vực hay ngành kinh tế; phân tích được lợi nhuận của các dòng sản phẩm. Đây là điều kiện quan trọng để xây dựng chiến lược trong hoạt động tín dụng đạt chất lượng cao.

- Căn cứ vào các mức xếp hạng, các quy trình tín dụng và chính sách khách hàng (xác định lãi suất, thủ tục tín dụng…) sẽ được xây dựng một cách đồng bộ, rõ ràng, chi tiết và cụ thể. Ngoài ra, nhờ đó mà quan điểm về văn hoá quản lý sẽ được tạo lập rõ nét. Các quy trình tín dụng được thiết lập thực sự hiệu quả trên cơ sở thực tiễn đi đôi với yêu cầu của thông lệ quốc tế, do vậy chi phí quản lý cũng sẽ được tiết kiệm nhiều hơn. Đặc biệt hệ thống này giúp cho công tác quản trị kinh doanh của Ngân hàng đạt tới yêu cầu cao, vững vàng khi hội nhập kinh tế quốc tế.

Các ngân hàng cần phải hoàn thiện mô hình tính điểm dựa trên sự kết hợp các phương pháp thống kê, phân tích, định lượng, xây dựng các chỉ tiêu tài chính và phi tài chính cho từng ngành nghề cũng như tính trọng số mức độ ảnh hưởng đến từng chỉ


tiêu tính điểm. Các bảng kết quả chỉ tiêu cần được điều chỉnh hợp lý khi thị trường biến động. Mặc khác, ngoài việc chấm điểm khách hàng theo quý hoặc khi có sự biến động bất cứ thông tin về phía khách hàng, ngân hàng cần kết hợp và mở rộng các nguồn thông tin khác như: thông tin từ Trung tâm Thông tin tín dụng quốc gia Việt Nam - CIC, từ cơ quan quản lý cấp trên, quản lý nhà nước, cơ quan thuế, các tổ chức tín dụng khác…. để có sự đánh giá chính xác trong quá trình xếp hạng.

Xếp hạng tín nhiệm khách hàng doanh nghiệp là một công cụ hiệu quả, mang tính khoa học trong công tác quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp nhằm phân loại nợ và đưa ra quyết định cấp tín dụng chính xác.Do đó hệ thống xếp hạng này cần được sửa đổi, hoàn thiện dần phù hợp với thực tế và hướng tới chuẩn mực quốc tế của Basel II.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.

4.2.2.7. Xây dựng và hoạch định chiến lược quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam

Ngoài mục tiêu phát triển kinh doanh, các NHTM cần phải hoạch định chiến lược quản trị rủi ro an toàn và hiệu quả. Lãnh đạo ngân hàng phải thường xuyên xem xét, điều chỉnh chính sách tín dụng, chiến lược kinh doanh phù hợp với tình hình kinh tế địa phương của từng Chi nhánh trực thuộc trong điều kiện nền kinh tế cụ thể, chú trọng đến ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế vĩ mô để hạn chế thấp nhất những rủi ro có thể xảy ra cho ngân hàng.

Quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam - 23

Phải có sự tách biệt giữa hoạt động nghiệp vụ chấp nhận rủi ro và giám sát rủi ro. Tại các Chi nhánh của ngân hàng, hầu hết đã có sự tách biệt bộ phận cho vay và bộ phận thẩm định nhưng vẫn chưa có bộ phận chuyên trách về quản trị rủi ro. Công tác quản trị rủi ro đang thực hiện phân tán giữa các phòng nghiệp vụ. Bộ phận này đóng vai trò chủ động trong việc giám sát rủi ro, hoạt động độc lập chứ không phải là một hoạt động hỗ trợ khâu thẩm định và xét duyệt cho vay.

Rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp phải được định lượng và định tính cụ thể bằng các mô hình lượng hóa, kết hợp với mô hình xếp hạng tín dụng nội bộ hiện hành. Từ đó đánh giá, phân loại xếp hạng doanh nghiệp chuẩn xác hơn, hạn chế sai lệch thông tin từ phía người chấm điểm, làm cơ sở tham chiếu cho việc cấp tín dụng. Để thực hiện được điều này, đòi hỏi các NHTM phải nâng cấp, phát triển hệ thống, để có thể thực hiện được yêu cầu về thu thập, quản lý và xử lý dữ liệu đảm bảo chất lượng thông tin đầu vào nhằm đạt được kết quả đo lường rủi ro chuẩn xác.

Hoạt động tín dụng là hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro, vì vậy cần phải có sự phối kết hợp giữa các bộ phận quản trị rủi ro về rủi ro tín dung, rủi ro lãi suất, rủi ro hoạt động.... để có các quyết định quản trị, phòng ngừa rủi ro toàn diện, hiệu quả.


Tăng cường khả năng quản trị rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp phù hợp với quy mô tổng tài sản không ngừng tăng lên theo thời gian

Kết quả nghiên cứu cho thấy giả thuyết “quản lý kém” có ý nghĩa đối với các NHTM qua biến khả năng sinh lời của rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp. Do khả năng sinh lời có tác động đến rủi ro tín dụng hiện tại nên ngân hàng cần chú trọng tăng cường khả năng quản trị rủi ro phù hợp với quy mô tổng tài sản không ngừng tăng lên theo thời gian. Nâng cấp cơ chế quản lý và kiểm soát rủi ro, lấy kinh nghiệm từ các ngân hàng nước ngoài để tiến hành phân tích tín dụng và giảm sát khả năng trả nợ của doanh nghiệp vay một cách hiệu quả.

Gia tăng trích lập quỹ dự phòng bù đắp rủi ro

Ngân hàng phải thường xuyên thực hiện phân loại tài sản “có”, trích lập và dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động, trong đó có hoạt động tín dụng nhằm chủ động xử lý rủi ro xảy ra, làm mạnh hóa tài chính của Ngân hàng.

Việc phân loại tài sản có, trích lập và sử dụng quỹ dự phòng rủi ro trong hoạt động Ngân hàng của tổ chức tín dụng được thực hiện theo quy định của Ngân hàng nhà nước trong từng thời kỳ.

Hiện tại, Ngân hàng tiến hành phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng theo Văn bản hợp nhất số 22/VBHN-NHNN ngày 04/6/2014 của NHNN ban hành quy định về việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD; Thông tư số 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 của NHNN ban hành quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài..

Khi Ngân hàng có đủ khả năng về tài chính và đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định của NHNN, đồng thời nhằm dần hướng tới thông lệ quốc tế và đáp ứng các quy định của Ủy ban Basel II việc phân loại tài sản có và trích lập dự phòng rủi ro được tiến hành theo phương pháp định tính. Theo đó, các TCTD phải xây dựng và được NHNN phê duyệt chính sách trích dự phòng rủi ro và hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ trên cơ sở đánh giá tình hình kinh tế, khả năng trả nợ của doanh nghiệp cũng như khả năng tài chính của bản thân TCTD. Quy định phân loại, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro theo phương pháp này thể hiện đúng bản chất của việc dự phòng các tổn thất, rủi ro của hoạt động Ngân hàng. Các tài sản có được dự phòng rủi ro theo chất lượng và khả năng tổn thất thật sự của tài sản, giúp ngân hàng đối phó kịp thời với các tài sản có xu hướng rủi ro.


4.2.2.8. Duy trì tốc độ tăng trưởng tín dụng phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP)

Đối với hệ thống NHTM Việt Nam, tăng trưởng tín dụng luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu, bởi tín dụng tăng trưởng một cách hợp lý và chất lượng sẽ tạo ra nguồn thu nhập ổn định và an toàn cho ngân hàng. Do vậy, đánh giá mức độ của các yếu tố tác động đến tăng trưởng tín dụng là việc làm cần thiết, giúp các ngân hàng thương mại xây dựng một mức tăng trưởng hợp lý, có tác động hiệu quả đến nền kinh tế cũng như lợi nhuận của bản thân các ngân hàng. Kết quả nghiên cứu cho thấy tăng trưởng tín dụng cùng chiều với rủi ro tín dụng đối với ngân hàng. Do đó, các NHTM cần tăng cường giám sát nội bộ để ngăn chặn sự tích tụ của rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp trong tương lai, bằng cách bảo đảm các ngân hàng tránh cho vay quá mức, đồng thời duy trì tiêu chuẩn cấp tín dụng đúng mức để đảm bảo chất lượng khoản vay. NHTM Việt Nam cần xây dựng chiến lược dài hạn từ những biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp như hoàn thiện chính sách tín dụng phù hợp với chuẩn mực quốc tế là điều kiện tiên quyết để đảm bảo áp dụng chính sách tín dụng nhất quán và chặt chẽ trong ngân hàng.

Cùng với đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) tác động ngược chiều đến rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp nên cần có các biện pháp kích cầu nền kinh tế, hỗ trợ cho khu vực doanh nghiệp tư nhân trong sản xuất kinh doanh và tiếp cận nguồn vốn. Điều này sẽ giúp tăng khả năng trả nợ của các doanh nghiệp và làm cho rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp của NHTM giảm xuống. Bên cạnh đó, cần kiểm soát tăng trưởng tín dụng, đồng thời đề xuất NHNN cần thực thiện chính sách tài khóa tiền tệ theo hướng ổn định trung và dài hạn để tạo nền tảng cho sự phát triển lành mạnh của hệ thống NHTM Việt Nam, qua đó kiểm soát và giảm thiểu rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp tương lai.

Từ một vài phân tích, nhận định trên và kinh nghiệm thực tiễn trong điều hành tăng trưởng tín dụng giai đoạn 2012-2016, cũng như tham khảo bài học tăng trưởng tín dụng của các nước đang phát triển có điều kiện giống nước ta: Việc tăng trưởng tín dụng luôn luôn phải được duy trì phù hợp với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Có như vậy tránh tăng trưởng ròng tín dụng nhất là lĩnh vực nhạy cảm, rủi ro cao như bất động sản, xăng dầu… tạo ra bong bóng bất động sản hoặc tích trữ xăng dầu…đều làm thiệt hại đến không chỉ nền kinh tế mà đến cả người tiêu dùng và cuối cùng là phương hại tới kết quả hoạt động kinh doanh của NHTM Việt Nam.


4.2.2.9. Xử lý nợ xấu của các TCTD và các Ngân hàng thương mại Việt Nam đã bán cho Công ty quản lý tài sản VAMC

Công ty quản lý tài sản VAMC (Vietnam Asset Management Company) được thành lập và hoạt động theo Nghị định số 53/2013-NĐ-CP của Chính phủ và Quyết định số 843/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và Quyết định số 1459/QĐ-NHNN của NHNN Việt Nam. Công ty có một số hoạt động chính là: Mua nợ xấu của các TCTD, thu hồi nợ, đòi nợ và xỷ lý bán nợ, tài sản bảo đảm, quản lý nợ xấu đã mua... Đây là Công ty TNHH một thành viên Nhà nước là chủ sở hữu và cũng là nơi riêng có của Việt Nam nhằm làm trong sạch nội bảng cho các TCTD, NHTM giúp các TCTD, NHTM hoạt động được bình thường sau nhiều nhăm nợ xấu như một gánh nặng trong hoạt động nghiệp vụ của mình.

Sau hơn 3 năm hoạt động, Công ty quản lý tài sản VAMC đã mua tổng cộng được 25.631 khoản nợ xấu tại 42 TCTD tại Việt Nam với tổng nợ gốc 282.124 tỷ đồng, giá mua nợ là 245.672 tỷ đồng, thanh toán bằng trái phiếu đặc biệt, các NHTM Việt Nam chiếm 96% tổng số nợ trên. Tuy nhiên, Công ty quản lý tài sản VAMC chỉ mới thu hồi được 50.165 tỷ bằng nhiều hình thức: bán nợ, bán tài sản bảo đảm đạt 17,6% so với tổng nợ gốc và dự kiến trong 4 năm tới tức là đến năm 2020 xử lý thêm được 150.000 tỷ đồng nợ xấu.

Việc chậm thu hồi nợ xấu từ Công ty quản lý tài sản VAMC xuất phát từ các nguyên nhân cơ bản như: việc bỏ quyền thu giữ tài sản trong bộ Luật dân sự 2015, Công ty quản lý tài sản VAMC không được nhận thế chấp quyền sử dụng đất đai theo Luật đất đai năm 2013, Công ty quản lý tài sản VAMC không có quyền xử lý tài sản bảo đảm đang thế chấp, cầm cố tại ngân hàng đảm bảo cho khoản vay theo Luật thi hành án dân sự năm 2008...

Cho nên, kết quả thu hồi nợ của Công ty quản lý tài sản VAMC là rất khiêm tốn so với kỳ vọng của các NHTM khi bán nợ cho Công ty quản lý tài sản VAMC. Hơn nữa, tuy đã bán nợ cho Công ty quản lý tài sản VAMC các NHTM vẫn phải tiếp tục trích dự phòng ở mức 20% đối với mệnh giá trái phiếu trong vòng 5 năm. Do đó:

- Về phía các NHTM: Nên tăng cường việc tự xử lý nợ xấu thay vì bán nợ cho Công ty quản lý tài sản VAMC

- Về phía Công ty quản lý tài sản VAMC: Tiếp tục trình Chính phủ Quốc hội để tháo gỡ khó khăn từ các nguyên nhân trên để giải phóng tổng số nợ đã mua của các NHTM Việt Nam.

Tại thời điểm tháng 9/2012, tỷ lệ nợ xấu ước tính thận trọng là chiếm khoảng 17% dư nợ, thậm chí nếu đánh giá đầy đủ theo con số của thanh tra thì có thể cao hơn.


Đến hết năm 2017, nợ xấu nội bảng của các TCTD là chưa đến 3%, song nếu bao gồm cả các khoản nợ xấu, nợ đã bán cho VAMC chưa xử lý và nợ có nguy cơ cao thì vào khoảng 10,08% tổng dư nợ. Trong đó nợ của các DN ngoài quốc doanh chiếm khoảng gần 64%, nợ của DNNN chiếm 6,3%, nợ hộ kinh doanh cá nhân chiếm 21%, nợ của DN nước ngoài chiếm hơn 1% tổng dư nợ. Về nguyên nhân và trách nhiệm gây ra nợ xấu, có thể kể đến:

- Nguyên nhân khách quan gây ra nợ xấu, theo tư lệnh ngành ngân hàng, là thời gian qua sự bất ổn chính trị, kinh tế thế giới tác động rất mạnh và gây rủi ro rất lớn đến sản xuất kinh doanh trong nước. Trong khi đó, kinh tế trong nước cũng còn khó khăn, chất lượng kinh tế tăng trưởng chưa cao, nợ công tăng nhanh.

Một yếu tố quan trọng khác là thị trường bất động sản có thời gian dài trầm lắng. Doanh nghiệp Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào vốn vay ngân hàng, hiệu quả còn thấp, nên khi có biến động từ bên trong và bên ngoài đều tác động đến hiệu quả của doanh nghiệp vay vốn gây ra nợ xấu. Hơn nữa tình hình các doanh nghiệp cũng phụ thuộc vào biến động kinh tế, nên nhiều khi doanh nghiệp không trả được nợ. Trong giai đoạn 2012-2017 bình quân mỗi năm có trên 63.000 doanh nghiệp giải thể và phá sản, cũng là yếu tố làm gia tăng nợ xấu hệ thống ngân hàng.

VAMC do NHNN thành lập nhằm xử lý nợ xấu, thúc đẩy tăng trưởng tín dụng hợp lý cho nền kinhtế. Chức năng, nhiệm vụ của VAMC là:

- Hoạt động của VAMC là mua - bán nợ xấu của các TCTD, thu hồi nợ, đòi nợ và xử lý, bán nợ, bán tài sản bảođảm.

- VAMC có vốn điều lệ là 500 tỷ đồng, sẽ mua lại nợ xấu bằng 100% giá trị sổ sách dưới dạng trái phiếu thời hạn 5 năm với lãi suất0%.

- VAMC có quyền yêu cầu TCTD bán nợ xấu. Nguyên tắc mua nợ xấu của công ty là mua nợ xấu của các TCTD theo giá trị ghi sổ sau khi đã khấu trừ số tiền dự phòng cụ thể mà TCTD đã trích lập cho khoản nợđó.

- VAMC sẽ mua nợ xấu của TCTD theo giá trị ghi sổ số dư nợ gốc khách hàng vay chưa trả đã được khấu trừ số tiền dự phòng cụ thể đã trích lập chưa sử dụng cho khoản nợ xấu đó và trả cho TCTD bán nợ bằng trái phiếu đặc biệt. Khi có nhu cầu về vốn, TCTD có thể sử dụng trái phiếu đặc biệt để vay tái cấp vốn của NHNN… Ngoài ra, căn cứ năng lực tài chính, hiệu quả kinh tế và điều kiện thị trường, VAMC mua nợ xấu của TCTD theo giá trị thị trường bằng nguồn vốn không phải trái phiếu đặc biệt trên cơ sở thỏa thuận và giá trị khoản nợ xấu được đánh giá lại…

Tuy nhiên, để VAMC hoạt động thực sự hiệu quả cần chú trọng vào một số giải pháp sau:


(1) VAMC cần được giao quyền lực đủ mạnh. Quyền lực của VAMC cần được giao cụ thể với nguồn ngân sách nhất định, gắn với một thời hạn cụ thể để giúp xử lý các khoản nợ xấu đang ở mức cao. Tuy nhiên, cần làm rõ rằng VAMC là các công ty quản lý tài sản chứ không phải là kho lưu giữ nợ xấu của hệ thống tàichính.

(2) Phát triển khung pháp lý cho thị trường mua - bán và xử lý tài sản xấu. Để VAMC dễ dàng thu hồi các khoản nợ đã mua, cần xây dựng và phát triển khung pháp lý sẵn sàng cho một thị trường mua - bán và xử lý các tài sản xấu. Điều này giúp tránh trường hợp khi cần áp dụng một chính sách xử lý nợ nào đó thì lại gặp phải những cản trở về pháp lý trong thựcthi.

(3) Xử lý nợ xấu phải đi đôi với tái cấu trúc doanh nghiệp, đặc biệt là DNNN. Như nguyên nhân đã nêu ở trên, nợ xấu của ngân hàng và nợ xấu của DNNN được xem là hai mặt của một đồng tiền. Do vậy, VAMC ra đời để xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng, thì đồng thời cũng có thể giải quyết được vấn đề nợ xấu của các DNNN.

Cần phải xác định rằng VAMC không phải “đũa thần” để xử lý toàn bộ nợ xấu của Việt Nam, mà VAMC phải gắn với xử lý các ngân hàng yếu kém, xử lý DNNN, hỗ trợ thị trường bất động sản, quản lý cung tiền, đảm bảo ổn định vĩmô.

Bên cạnh đó, giai đoạn vừa qua các chính sách vĩ mô còn thiếu ổn định, làm gia tăng ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh, tác động đến khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Về cơ chế xử lý tài sản còn bất cập, khiến cho nợ xấu không có biến chuyển nhiều khi xử lý nợ. Đáng chú ý là như nhiều đại biểu đã nói, nhiều khách hàng vay ngân hàng còn chây ì, trốn tránh trách nhiệm trả nợ… Thị trường vốn chưa phát triển tương xứng, ngân hàng là kênh tài trợ tài chính chủ yếu, khiến cho nợ xấu của nền kinh tế chủ yếu là nợ ngân hàng.

- Về nguyên nhân chủ quan: Quy trình tín dụng của một số TCTD còn chưa đầy đủ và chặt chẽ, tạo kẽ hở để khách hàng và cán bộ ngân hàng lợi dụng. Năng lực quản trị rủi ro của một số TCTD còn hạn chế, kiểm tra kiểm soát nội bộ chưa tốt, tính tuân thủ chưa cao… Chuẩn mực đạo đức cán bộ chưa được quan tâm dẫn đến rủi ro trong việc cho vay.

Về rủi ro đạo đức của ngân hàng, một bộ phận cán bộ ngân hàng thoái hoá biến chất, lợi dụng chức vụ quyền hạn để câu kết với khách hàng cố ý làm trái các quy định. Các hành vi vi phạm này trong thời gian qua đã, đang và sẽ được xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật.

Trong đề án tái cơ cấu TCTD thời gian qua đã cơ bản giải quyết được các vấn đề nhưng chưa giải quyết dứt điểm được vấn đề nợ xấu. Công tác thanh tra chưa hoàn toàn đáp ứng được nhu cầu…


Từ những nhận định và phân tích trên, có thể coi đây là một giải pháp vĩ mô quan trọng nhất để các NHTM Việt Nam thu hồi được khoản nợ xấu đã bán cho Công ty quản lý tài sản VAMC, chiếm khoảng 10,8% tổng dư nợ mà muốn tháo gỡ nội dung này, không có con đường nào khác là NHTM Việt Nam trình Chính phủ để trình Quốc hội hướng giải quyết. Từ đó giúp các NHTM giảm hẳn nợ xấu thực sự và làm cho hoạt động quản trị rủi ro tín dụng nói chung và quản trị rủi ro tín dụng nói riêng đối với doanh nghiệp (chiếm khoảng 71,3% trong tổng nợ xấu) ngày một tốt hơn vừa sát thực tiễn vừa gần với thông lệ quốc tế.

4.2.2.10. Giải pháp từ các doanh nghiệp vay vốn Ngân hàng thương mại

Khách hàng vay vốn phải tự củng cố, chấn chỉnh hoạt động, nâng cao năng lực tài chính, quản trị, tăng cường công nghệ và khả năng cạnh tranh, chủ động, tích cực phối hợp với các TCTD xây dựng và triển khai các phương án cơ cấu lại nợ, tháo gỡ khó khăn sản xuất kinh doanh; chủ động phát triển thị trường, tiêu thu hàng hóa, đẩy mạnh xuất khẩu; tham gia tích cực vào các chương trình, giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp do Chính phủ, các Bộ, ngành và địa phương triển khai.

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần nâng cao hiệu quả kinh doanh, đảm bảo cơ cấu vốn hợp lý, bố trí vốn đúng nguyên tắc, sử dụng vốn có hiệu quả, ổn định lượng tiền mặt cần thiết cho cán cân thanh toán, cân đối hệ số vốn vay trên vốn chủ sở hữu không vượt quá trung bình của ngành, thường xuyên đánh giá thực trạng tài chính doanh nghiệp thông qua các tỷ số tài chính đặc trưng để đưa ra kiến nghị cảnh báo về tình hình tài chính là giải pháp trước mắt cũng như lâu dài xử lý và ngăn ngừa nợ xấu.

4.2.3. Nhóm giải pháp xử lý nợ xấu

Nợ xấu là vấn đề không thể xử lý ngay được mà phải có lộ trình cụ thể, lâu dài. Trước mắt các NHTM phải chủ động tự xử lý nợ xấu thông qua việc nâng cao chất lượng quản trị điều hành, kiểm toán nội bộ, phát triển hệ thống quản trị rủi ro và các chiến lược phát triển kinh doanh, thủ tục cấp tín dụng theo hướng lành mạnh, thận trọng. Bên cạnh đó, các ngân hàng và NHTM cần chủ động phối hợp với khách hàng vay vốn để cơ cấu lại nợ, giãn thời gian trả nợ và xem xét giảm lãi suất một cách hợp lý nhằm giúp các doanh nghiệp tiêu thụ được sản phẩm và giải quyết những khó khăn nhất thời trong hoạt động kinh doanh. Việc này có thể khiến lợi nhuận của các doanh nghiệp giảm trong ngắn hạn nhưng đổi lại khi doanh nghiệp phục hồi sẽ tác động tích cực trở lại đối với các NHTM và bù đắp bằng lợi nhuận trong tương lai.

Để xử lý nợ xấu và phòng ngừa, hạn chế nợ xấu gia tăng trong tương lai, Đề án Xử lý nợ xấu của hệ thống các NHTM đã nêu rõ các NHTM cần chủ động triển khai

Xem tất cả 232 trang.

Ngày đăng: 02/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí