Trước khi thực hiện các quy định mới, Basel II có thể trải qua một sự điều chỉnh định lượng trên cơ sở các kết quả của nghiên cứu tác động gần đây nhất.Các yêu cầu về quản lý rủi ro của Basel II có thể mang tới những thay đổi đáng kể trong kinh doanh căn bản của một ngân hàng riêng lẻ cũng như trong cơ cấu tổ chức của nó. Với Basel II, đầu ra của việc quản lý tốt hơn rủi ro tín dụng và rủi ro vận hành sẽ là đầu vào của mô hình vốn kinh tế mà sử dụng nó các ngân hàng có thể phân bổ vốn cho các chức năng và giao dịch khác nhau và phụ thuộc vào rủi ro.
Nhìn chung về Basel II
Với Basel II, ủy ban Basel đã từ bỏ phương pháp luận “một kích thước phù hợp với tất cả” (“one size fits all”) của hiệp ước về vốn năm 1988 về việc tính toán yêu cầu vốn pháp định nhỏ nhất và giới thiệu khái niệm “3 cột trụ” (three pillar concept) mà tìm kiếm để liên minh các yêu cầu pháp định với các nguyên tắc kinh tế của quản lý rủi ro. Basel II được thiết kế như một khung tiến hóa, vì vậy theo thời gian các cập nhật sẽ được thực hiện để bắt kịp với sự phát triển liên tục trong ngành tài chính. Trước khi thực hiện các quy định mới, Basel II có thể trải qua một sự điều chỉnh định lượng trên cơ sở các kết quả của nghiên cứu tác động gần đây nhất. Basel I giới hạn bằng việc đo lường rủi ro thị trường và đo lường cơ bản cho rủi ro tín dụng. Basel II giới thiệu một chuỗi các cách tiếp cận rủi ro tín dụng phức tạp và tập trung mới vào rủi ro vận hành. Basel II sử dụng khái niệm 3 trụ cột “three pillars”- (1) Yêu cầu vốn tối thiểu, (2) rà soát giám sát, (3) nguyên tắc thị trường.
(1) Trụ cột 1: Yêu cầu vốn tối thiểu (Minimum Capital Requirements)
Trụ cột 1 (Pillar 1) nhắc đến việc duy trì một lượng vốn pháp định được tính toán cho ba thành phần rủi ro mà ngân hàng đối mặt: rủi ro thị trường, rủi ro tín dụng và rủi ro vận hành. Với thành phần rủi ro tín dụng có thể được tính toán theo ba cách khác nhau của thay đổi độ phức tạp, cụ thể là tiếp cận tiêu chuẩn hóa, IRB nền tảng và IRB cao cấp. IRB là viết tắt của “Internal Rating - Based Approach” - “Phương pháp tiếp cận dựa trên đánh giá nội bộ”.
Với rủi ro vận hành, có ba cách tiếp cận khác nhau - phương pháp tiếp cận chỉ số cơ bản, phương pháp tiêu chuẩn hóa, và phương pháp đo lường nội bộ. Đối với rủi ro thị trường phương pháp tiếp cận ưa thích là VaR.
Với trụ cột 1, tỷ lệ vốn tối thiểu bằng 8% là không thay đổi. Tỷ lệ này thể hiện mối quan hệ giữa các quy định về quỹ (vốn) của riêng ngân hàng và tài sản được điều chỉnh theo trọng số rủi ro, một cách tính toán khả năng gánh chịu rủi ro. Tài sản được điều chỉnh theo trọng số rủi ro là giá trị tài sản nhân lên với một tham số (trọng số rủi ro) mà là đại diện cho cho rủi ro (tín dụng) liên quan tới các tài sản này. Với rủi ro vận
hành và rủi ro thị trường, hai loại rủi ro khác được tính toán trong khung Basel I, tài sản được điều chỉnh theo trọng số (mà được dùng trong tính tỉ lệ vốn tối thiểu) có nguồn gốc trực tiếp từ các yêu cầu về vốn được tính bằng cách nhân chúng với 12,5 (nghịch đảo của tỷ lệ tối thiểu 8%).
Có thể bạn quan tâm!
- Các Biến Và Các Giả Thuyết Cần Kiểm Định Cho Hệ Thống Nhtm
- Chạy Mô Hình Pooled Ols Sau Khi Thêm Biến Lạm Phát Và Tăng Trưởng Kinh Tế
- Các Giải Pháp Tăng Cường Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Đối Với Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam
- Tranh Thủ Sự Ủng Hộ Của Các Định Chế Tài Chính Và Tạo Điều Kiện Cho Các Nhà Đầu Tư Trong Và Ngoài Nước Tham Gia Vào Quá Trình Xử Lý Nợ Xấu
- Cập Nhật Và Sử Dụng Thông Tin Tín Dụng Để Hạn Chế Rủi Ro Tín Dụng Đối Với Doanh Nghiệp Tại Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam
- Hoàn Thiện Hệ Thống Xếp Hạng Tín Nhiệm Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam
Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.
Trụ cột 1, cũng cung cấp một cập nhật cơ bản của phương pháp Basel I cho tính toán tài sản điều chỉnh theo trọng số rủi ro, mẫu số của tỷ lệ vốn. Đầu tiên, rủi ro vận hành được giới thiệu như một loại rủi ro mới cho các ngân hàng phải giữ vốn quy định. Rủi ro này bao gồm các thiệt hại do quy trình nội bộ không đầy đủ hoặc bị thất bại, do con người hay hệ thống, hoặc từ các sự kiện bên ngoài. Thêm vào đó, một loạt các tùy chọn nhạy cảm với rủi ro và ngày càng tinh vi có thể dùng để quyết định yêu cầu về vốn của ngân hàng, cả cho rủi ro tín dụng và rủi ro vận hành. Theo cách này, tùy chọn có thể được lựa chọn để phù hợp nhất với các đặc trưng riêng biệt của từng ngân hàng. Hơn nữa, ưu đãi được áp dụng cho các ngân hàng áp dụng cách tiếp cận phức tạp hơn và do đó cải thiện khả năng quản lý rủi ro của họ theo thời gian. Trong lĩnh vực rủi ro tín dụng, có hai phương phương pháp được tiếp cận, đó là tiếp cận tiêu chuẩn và tiếp cận dựa trên xếp hạng nội bộ (IRB). Cách tiếp cận trước ràng buộc trọng số rủi ro với xếp hạng cung cấp bởi các cơ quan xếp hạng được công nhận. Cách tiếp cận sau sử dụng các ước tính của chính ngân hàng về các yếu tố rủi ro nhất định, dựa trên các yếu tố rủi ro được phép tính toán, khoảng cách được tạo ra giữa cách tiếp cận cơ bản và cách tiếp cận nâng cao. Các quy định mới về rủi ro tín dụng cũng bao gồm cả đối phó chi tiết với chứng khoán và giảm thiểu rủi ro tín dụng. Cuối cùng, trong lĩnh vực rủi ro vận hành, ngân hàng có thể tính toán yêu cầu vốn trên cơ sở tổng thu nhập của mình (cách tiếp cận chỉ tiêu cơ bản và phương pháp tiếp cận tiêu chuẩn). Với rủi ro thị trường, khung Basel mới về cơ bản không thay đổi cách tiếp cận hiện tại.
(i) Cách tiếp cận được chuẩn hóa cho rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp
Trong cách tiếp cận đã chuẩn hóa, tài sản được phân loại thành một tập hợp các lớp tài sản được chuẩn hóa và một trọng số rủi ro áp dụng cho mỗi lớp, phản ánh mức độ tương quan của rủi ro tín dụng. Sự thay đổi so với Basel I liên quan đến sử dụng xếp hạng tín dụng bên ngoài làm cơ sở quyết định trọng số rủi ro. So với Basel I, nơi mà tất cả các tài sản đều được đánh trọng số 100%, thì giờ đây đã có sự cân nhắc khác nhau cho các trọng số rủi ro. Trọng số cho các doanh nghiệp đầu tư đã giảm đáng kể (ví dụ, tới 20% cho AAA), trong khi ở phân khúc doanh nghiệp không đầu tư, một trọng số rủi ro là 50% áp dụng cho doanh nghiệp được xếp hạng dưới “BB”. Hơn nữa, các doanh nghiệp không được xếp hạng giờ đây đã đạt được một trọng số rủi ro tương tự như lúc trước thu được theo Basel I.
(ii) Tiếp cận dựa trên xếp hạng nội bộ cho rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp
Tiếp cận dựa trên xếp hạng nội bộ cho rủi ro tín dụng (IRB) là một trong những yếu tố đổi mới nhất của khung Basel II mới bởi vì nó cho phép chính các ngân hàng quyết định các yếu tố căn bản khi tính toán các yêu cầu về vốn của họ. Với cách tiếp cận IRB, vốn yêu cầu tối thiểu dựa trên “phân bố xác suất thua lỗ” dựa vào rủi ro mặc định trong danh mục các khoản vay hay các công cụ tài chính khác. Nhận thức về đánh giá rủi ro được thiết lập trong một năm. Mô hình IRB tiếp tục giả định một mức độ 99.9% độ tin cậy, (nghĩa là một lần trong một nghìn năm), các tổn thất thực tế dự kiến sẽ vượt quá ước tính của mô hình.
(2) Trụ cột 2: Rà soát giám sát (Supervisory Review Process)
Trụ cột 2 (Pillar 2) định nghĩa quá trình rà soát giám sát của khung quản lý rủi ro của tổ chức và cuối cùng là an toàn vốn. Nó đặt ra trách nhiệm giám sát cụ thể đối với hội đồng quản trị và quản lý cấp cao, do đó tăng cường nguyên tắc của kiểm soát nội bộ và quản trị doanh nghiệp khác do cơ quan quản lý ở các nước khác nhau trên toàn thế giới thực hiện. Theo Ủy ban Basel, Hiệp ước mới nhấn mạnh tầm quan trọng của quản lý ngân hàng là phát triển một quy trình đánh giá vốn nội bộ và thiết lập mục tiêu cho vốn có tương xứng với hồ sơ rủi ro đặc biệt và môi trường kiểm soát của ngân hàng. Giám sát viên sẽ chịu trách nhiệm đánh giá xem các ngân hàng định giá nhu cầu an toàn vốn của họ liên quan đến rủi ro của ngân hàng tốt đến mức nào. Sau đó các quy trình nội bộ sẽ là đối tượng được rà soát giám sát và can thiệp khi thích hợp. Kết quả là giám sát viên có thể yêu cầu, ví dụ, hạn chế về chi trả cổ tức hoặc nâng cao ngay lập tức vốn bổ sung.
Với quy trình rà soát giám sát, các câu hỏi cũng sẽ được đề cập là liệu các ngân hàng có nên giữ vốn bổ sung đối với những rủi ro mà không hoặc không hoàn toàn, được nhắc đến trong trục cột 1, và điều này có thể liên quan đến hành động giám sát khi điều này thực sự xảy ra. Vai trò tích cực cho cơ quan giám sát sẽ cung cấp cho các ngân hàng ưu đãi để tiếp tục cải thiện mô hình và hệ thống quản lý rủi ro và của các ngân hàng. Đối với tình hình hiện nay, Trụ cột 2 đòi hỏi giám sát viên áp dụng cẩn thận hơn các quyết định trong việc đánh giá về an toàn vốn của các ngân hàng riêng lẻ.
(3) Trụ cột 3: Nguyên tắc thị trường (Market Discipline)
Trụ cột 3 (Pillar 3) nhằm mục đích tăng cường kỷ luật thị trường thông qua tăng cường công khai thông tin của các ngân hàng. Nó đặt ra yêu cầu và khuyến nghị công khai thông tin trong một số lĩnh vực, bao gồm cả cách ngân hàng tính toán an toàn vốn và phương pháp đánh giá rủi ro của ngân hàng. Tăng cường so sánh và minh bạch giữa
các ngân hàng là kết quả mong muốn của trụ cột 3. Đồng thời, Ủy ban Basel đã tìm cách để đảm bảo rằng Basel II tương ứng với các chuẩn mực kế toán, và trên thực tế, không xung đột với các tiêu chuẩn về công khai thông tin kế toán rộng hơn mà các ngân hàng phải tuân thủ.
Với trụ cột 3, các ngân hàng sẽ được yêu cầu công khai thông tin tập trung vào các thông số quan trọng của hồ sơ kinh doanh của họ, nguy cơ rủi ro và quản lý rủi ro. Những công khai như vậy được xem như là một điều kiện tiên quyết cho tính hiệu quả hoạt động của nguyên tắc thị trường ngân hàng. Cả hai thông tin định tính và định lượng phải được công khai. Do đó cần thiết công khai về cơ cấu và an toàn vốn, và thông tin công khai phải bao gồm chi tiết về vốn căn bản. Về công khai rủi ro tín dụng, thông tin về kỹ thuật giảm thiểu rủi ro tín dụng và tài khoản chứng khoán phải được cung cấp. Các ngân hàng sẽ được yêu cầu phác thảo một số chi tiết về việc sử dụng phương pháp tiếp cận IRB, mà đại diện cho một thành phần chính của Hiệp ước mới. Yêu cầu công khai còn bao gồm thêm việc tuân thủ các yêu cầu về rủi ro vận hành. Cuối cùng, Hiệp ước mới yêu cầu thông tin về cổ phần vốn chủ sở hữu và rủi ro lãi suất trong cuốn sách ngân hàng được xuất bản.
Như vậy, 3 trụ cột của Basel II có thể tóm tắt như sau:
(i) Trụ cột 1 : Yêu cầu về vốn tối thiểu
(ii) Trụ cột 2: Rà soát giám sát
- Các ngân hàng cần phải có một quy trình đánh giá an toàn vốn tổng thể của họ và chiến lược để duy trì mức vốn;
- Các giám sát viên nên rà soát và đánh giá lại “quy trình đánh giá về mức vốn nội bộ cũng như về các chiến lược của ngân hàng”;
- Các giám sát viên mong đợi ngân hàng hoạt động trên tỉ lệ vốn tối thiểu, và nên khuyến nghị các ngân hàng duy trì vốn ở mức cao hơn mưc tối thiểu.
- Giám sát viên cần tìm cách can thiệp ở giai đoạn đầu để ngăn chặn vốn rơi xuống dưới mức tối thiểu.
(iii) Trụ cột 3: Nguyên tắc thị trường
Nguyên tắc thị trường củng cố các nỗ lực để thúc đẩy an toàn và minh bạch trong các ngân hàng. Công khai các thông tin cơ bản và các thông tin liên quan đã làm cho nguyên tắc thị trường hiệu quả hơn.
So sánh giữa Basel I và Basel II
Với Basel I, mức độ phân biệt rủi ro rất đơn giản. Ngoại trừ Chính phủ, tổ chức công cộng, ngân hàng, tài sản thế chấp nhà ở, các hệ số rủi ro là 100%. Cho vay Samsung Electronics và SOHO nhận được trọng số số rủi ro như nhau. Điều này là không hợp lývới lẽ thường. Các đặc điểm chính của BaselII đang củng cốs ự phân biệt rủi ro và tăng lợi ích cho ngân hàng mà có thể quản lý rủi ro sử dụng dữ liệu nội bộ đạt chất lượng. Đối với ngân hàng không có dữ liệu nội bộ đạt chất lượng, sẽ sử dụng giá trị ước lượng tiêu chuẩn được đưa ra bởi cơ quan giám sát. Điều này có ý nghĩa là đưa ngân hàng đến một sự biến đối sang một cấu trúc mà các hệ thống của ngân hàng như dữ liệu nội bộ, quy trình, quản lý và chiến lược có khả năng chống lại rủi ro thực tế. Môi trường pháp lý thay đổi ảnh hưởng đến kinh doanh và việc ra quyết định thông qua nhiều loại tương tác.
Các yêu cầu về quản trị rủi ro của Basel II có thể mang tới những thay đổi đáng kể trong kinh doanh căn bản của một ngân hàng riêng lẻ cũng như trong cơ cấu tổ chức của nó. Với Basel II, các kết quả quản lý tốt hơn rủi ro tín dụng và rủi ro vận hành sẽ là đầu vào của một mô hình vốn kinh tế mà dùng nó các ngân hàng có thể cấp vốn cho các chức năng và giao dịch khác nhau tùy thuộc vào rủi ro.
Để tránh khả năng yêu cầu dự trữ vốn cao hơn có thể gây nguy hiểm cho vị thế thị trường, các ngân hàng cần phải đảm bảo rằng họ có một cách tiếp cận triển khai toàn diện tại chỗ. Họ cũng cần phải cân nhắc làm thế nào những thách thức và cơ hội của Basel II có thể ảnh hưởng đến kinh doanh của họ và các mối quan hệ khách hàng của họ theo thời gian.
4.2.1.3. Đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu (vòng 2) các Ngân hàng thương mại Việt Nam
Để thúc đẩy quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng và TCTD, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 254/QĐ-TTg ngày 01/3/2012, theo đó cơ quan đầu mối thực hiện tái cơ cấu là NHNN sẽ tiến hành đánh giá, xác định thực trạng hoạt động, chất lượng tài sản và nợ xấu của các TCTD; tiến hành đánh giá và phân loại TCTD: xây dựng và triển khai phương án cơ cấu lại TCTD yếu kém và các TCTD khác; tập trung hỗ trợ thanh khoản để đảm bảo khả năng chi trả của các TCTD; hoàn thành căn bản phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng của các NHTM Nhà nước; triển khai sáp nhập, hợp nhất và mua lại TCTD; tăng vốn điều lệ và xử lý nợ xấu của các TCTD; cơ cấu lại hoạt động và hệ thống quản trị.
Có thể nói, xử lý nợ xấu là trọng tâm giai đoạn 2 của tái cơ cấu hệ thống ngân hàng. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để các ngân hàng yếu kém đang gây ra nhiều rắc rối
cho thị trường tiền tệ, đặc biệt là cho việc ổn định lãi suất, ổn định thanh khoản phải được xử lý triệt để. Cách tốt nhất mà các nước thường làm là nếu các ngân hàng yếu kém quá mà tự họ không khắc phục được, các ngân hàng không sáp nhập được với nhau thì Chính phủ phải gom lại thành một ngân hàng của Chính phủ, sau đó quốc hữu hóa để thực thi các chính sách tiền tệ ổn định trong giai đoạn tái cơ cấu. Sau này, khi ngân hàng đó ổn định, phát triển lên thì có thể lại tư nhân hóa, cổ phần hóa.
Bên cạnh đó, Chính phủ cần cho phép và khuyến khích việc mua bán và sáp nhật giữa các ngân hàng. Một số ngân hàng có tiềm lực tài chính mạnh, quản trị doanh nghiệp tốt có thể được mua lại những ngân hàng yếu kém (kể cả các ngân hàng nước ngoài, tuy nhiên với ngân hàng nước ngoài thì phải khống chế tỷ lệ vốn nhất định). Việc sáp nhập cũng có thể theo định hướng sáp nhập các ngân hàng có lĩnh vực hoạt động giống nhau để đảm bảo sự tương thích về mô hình kinh doanh và tổ chức. Điều này vừa giúp giữ lại được các ngân hàng, đảm bảo lợi ích và lòng tin cho các dân chúng, vừa cải thiện năng lực quản trị rủi ro cho các ngân hàng. Việc sáp nhập các ngân hàng làm gia tăng sức mạnh tài chính cũng như tập hợp các thế mạnh giữa các ngân hàng tham gia hợp nhất.
Cần phải có vòng cải cách các ngân hàng lần hai, bao gồm cả việc đóng cửa, thanh lý một số NHTM yếu kém, không tồn tại được để nâng cao sức cạnh tranh của thị trường tài chính Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Trong nền kinh tế thị trường, tất cả đều chịu sự chi phối mãnh liệt của quy luật cạnh tranh, việc thành lập, phá sản là một quy luật tự nhiên trong kinh doanh. Vì vậy, việc phá sản những ngân hàng yếu kém là một quy luật tất yếu khách quan của xã hội, phù hợp với quy luật cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
Sau hơn 30 năm đổi mới, thị trường tài chính Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ, thu được nhiều thành tựu. Thị trường tài chính Việt Nam ngày càng hội nhập quốc tế hơn, sau khi Chính phủ Việt Nam đã thực thi nhiều cải cách khuyến khích khu vực tư nhân và nước ngoài cùng với định chế tài chính của nhà nước tham gia vào hệ thống tài chính, nhằm tạo lập sự đa dạng về mô hình kinh doanh, quy mô kinh doanh, cấu trúc sở hữu của các định chế tham gia thị trường. Bên cạnh những thành tựu, hiện thị trường tài chính Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập.
Trước hết, đó là sự bất hợp lý, mất cân đối về cấu trúc thị trường với khu vực ngân hàng chiếm tỷ trọng lớn và chịu nhiều áp lực lớn (tỷ lệ dư nợ tín dụng/GDP là 112%). Trong khi thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm chiếm tỷ lệ nhỏ, phát triển chưa tương xứng với tỷ lệ giá trị trái phiếu/GDP là 22%, giá trị vốn hóa thị trường chứng khoán/GDP là 27%, tổng doanh thu bảo hiểm/GDP đạt khoảng 2%.
Chính sự mất cân đối và hạn chế này tiềm ẩn những nguy cơ gây bất ổn cho hệ thống ngân hàng cũng như nền kinh tế.
Ngoài ra, thị trường tài chính Việt Nam vẫn tồn tại một số hạn chế nữa như tính ổn định và hiệu quả của thị trường chưa cao; tính minh bạch chưa đáp ứng được yêu cầu; tính bền vững của thị trường chưa thực sự vững chắc; tính an toàn còn gặp thách thức khi mạng lưới giám sát các khu vực của thị trường tài chính còn phân tán, giám sát an toàn vĩ mô và an toàn vi mô đang còn khuyết thiếu chưa thể kết nối liên thông nhằm giám sát ngăn ngừa có hiệu quả rủi ro hệ thống…
Thêm vào đó, trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập sâu rộng với nền kinh tế toàn cầu, áp lực lên thị trường tài chính sẽ ngày càng gia tăng trong thời gian tới. Theo đó, thị trường tài chính Việt Nam cũng phải đối mặt với không ít những rủi ro trước các nguy cơ như mất an toàn tài chính từ khủng hoảng mang tính dây truyền, rủi ro giám sát tài chính… ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của các định chế tài chính và thị trường tài chính trong nước. Ngoài ra, việc tăng cường hội nhập quốc tế cũng khiến cho việc cạnh tranh trên thị trường tài chính Việt Nam trở nên gay gắt hơn, gây ra sức ép không nhỏ cho các chủ thể nội địa vốn không có nhiều lợi thế cạnh tranh trong điều kiện thị trường tài chính Việt Nam chưa phát triển.
Để nâng cao năng lực cạnh tranh của thị trường tài chính Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế, cần đẩy nhanh tiến trình xử lý nợ xấu và ngăn ngừa nợ xấu mới. Bên cạnh đó, cần nâng cao hiệu quả hoạt động của Công ty Quản lý tài sản VAMC, bằng cách sửa khuôn khổ pháp lý, cho phép Công ty quản lý tài sản VAMC thúc đẩy xử lý và bán nợ xấu…
Cần giảm sở hữu nhà nước tại các NHTM nhà nước (có lộ trình 65% và 51%); phân tách vai trò chủ sở hữu và quản lý; nới room sở hữu cho các nhà đầu tư nước ngoài (cho nước ngoài được sở hữu nhiều hơn về số lượng và chủng loại sở hữu, vượt mức 49%). Đặc biệt, cần đẩy nhanh lộ trình thoái vốn tại các ngân hàng thương mại cổ phần do nhà nước mua lại, chấp nhận phá sản ngân hàng thương mại yếu kém….
4.2.1.4. Thiết lập hạ tầng tài chính vững chắc
Hạ tầng tài chính báo hàm: các chuẩn mực, quy tắc, quy đinh về kế toán, kiểm toán, về quản trị doanh nghiệp; các hệ thống thanh toán; khuôn khổ pháp lý điều tiết và giám sát hoạt động thị trường tài chính nói riêng… nhằm tới mục tiêu hỗ trợ cho hệ thống tài chính hoàn thành tốt vai trò trung gian tài chính của mình, bảo đảm về tốc độ và chi phí chu chuyển vốn, về khả năng truyền tải và phân tán rủi ro tài chính.
Một hạ tầng tài chính vững mạnh rõ ràng là tiền đề quan trọng bảo đảm cho các
định chế tài chính (quan trọng nhất là các NHTM) hoạt động tốt và các thị trường tài
chính (bao gồm thị trường tiền tệ) vận hành trôi chảy. Nhờ đó, các cơ quan điều tiết và giám sát tài chính - ngân hàng mới có môi trường hoạt động cần thiết để phát huy đủ vai trò của mình. Ngược lại thiếu một hạ tầng tài chính vững chắc, các cơ quan điều tiết và giám sát tài chính - ngân hàng dù có cố gắng, nhưng cũng có thể vẫn thất bại khi thi hành sứ mệnh của mình. Không ai khác, Chính phủ và các cơ quan tham mưu liên quan như DNNN, Bộ Tài chính… phải đảm đương vai trò thiết lập tài chính vững mạnh cho hệ thống TCTD có thể hoạt động an toàn, lành mạnh và hiệu quả.
Tăng cường pháp chế trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng là việc các cơ quan nhà nước liên quan bao gồm NHNN và các đối tượng bị quản lý các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức có hoạt động ngân hàng, mọi tổ chức kinh tế và công dân đều phải tuân thủ nghiêm các quy định pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngânhàng.
Ghi nhận một thực tế là Việt Nam đã buông lỏng pháp chế một thời gian dài. Chưa bao giờ hoạt động tiền tệ - ngân hàng lại hỗn loạn, vô tổ chức như những năm vừa qua. Tình trạng “lách luật”, thao túng, lũng đoạn thị trường, hiện tượng gian dối số liệu sổ sách và báo cáo,... diễn ra phổ biến. Cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng đã tỏ ra bất lực, buông xuôi hay bị vô hiệu hoá. Hệ quả là lòng tin của thị trường bị đổ vỡ, đe doạ khủng hoảng ngânhàng.
4.2.1.5. Chính phủ và NHNN cần rà soát phân loại các khoản nợ để có những biện pháp thích hợp
Theo đó, đối với những khoản nợ xấu có lỗi do nguyên nhân chủ quan của ngân hàng như thẩm định dự án để cho vay sai, việc quản lý rủi ro cho vay yếu kém, sử dụng tiền đối với các nghiệp vụ nhiều rủi ro như: ủy thác đầu tư chứng khoán, cho vay kinh doanh chứng khoán, định giá cho vay bất động sản là quá cao… thì ngân hàng phải tự xử lý, tức là sẽ dùng quỹ dự phòng để sạch bảng cân đối kế toán, bởi vì ngân hàng cũng là một chủ thể, một pháp nhân trong nền kinh tế, khi họ đưa ra các quyết định không thận trọng, sai sót trong kinh doanh thì đương nhiên họ phải trả giá cho những việc làm của chính họ. Nhà nước bơm tiền để giải quyết các khoản nợ xấu do lỗi của ngân hàng thì xét về bản chất sẽ lấy tiền đóng thuế của những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và của người dân để giải cứu cho những việc làm sai lầm của ngân hàng. Hơn nữa nếu bơm tiền để cứu các ngân hàng thua lỗ do hoạt động yếu kém của họ, sẽ tạo ra một tiền lệ rất xấu và sẽ càng khuyến khích các ngân hàng này kinh doanh mạo hiểm hơn như thế sẽ gây hậu quả khó lường vềsau.
Trong trường hợp các khoản nợ xấu do nguyên nhân khách quan, tức là các ngân hàng thương mại đã quản trị rủi ro tốt, hồ sơ thẩm định cho vay đúng mục đích,