Các Bước Tính Toán Trạng Thái Thanh Khoản Ngân Hàng Kỳ Kế Hoạch


1.2.3.2. Nguyên tắc quản trị rủi ro thanh khoản

RRTK là loại rủi ro có tính thường trực trong hoạt động ngân hàng, hơn nữa, giữa RRTK và thu nhập luôn là hai mặt song hành nhưng đối lập nhau trong hoạt động ngân hàng, đòi hỏi ngân hàng phải xử lý thỏa đáng mối quan hệ này để vừa bảo đảm an toàn nhưng cũng tăng thu nhập cho ngân hàng. Vì vậy, quản trị RRTK trong ngân hàng phải tuân thủ các nguyên tắc nhất định, đồng thời, cũng phải tuân thủ chặt chẽ các bước trong quy trình quản trị, đó là: (i) Nhận biết dấu hiệu RRTK;

(ii) Đo lường mức độ RRTK; (iii) Lựa chọn chiến lược quản trị RRTK phù hợp.

Quản trị RRTK trong các NHTM phải tuân thủ các nguyên tắc được đề xuất trong Basel, đó là:

Nguyên tắc 1: Ngân hàng cần thống nhất về một chiến lược quản lý khả năng thanh toán hàng ngày. Chiến lược này cần được truyền đạt trong toàn ngân hàng.

Nguyên tắc 2: Hội đồng quản trị của ngân hàng cần là cơ quan duyệt chiến lược và các chính sách cơ bản liên quan đến quan lý khả năng thanh toán của ngân hàng. Hội đồng quản trị cũng cần đảm bảo là các cán bộ quản lý cao cấp của ngân hàng thực hiện những biện pháp cần thiết để theo dõi và kiểm soát RRTK của ngân hàng và được thông báo ngay lập tức nếu có những thay đổi lớn về khả năng thanh khoản hiện tại hoặc trong tương lai của ngân hàng.

Nguyên tắc 3: Ngân hàng cần có một cơ cấu quản lý để thực hiện có hiệu quả chiến lược và khả năng thanh khoản. Cơ cấu này cần bao gồm sự tham gia thường xuyên của các thành viên thuộc nhóm cán bộ quản lý cao cấp. Các cán bộ quản lý cao cấp cần đảm bảo khả năng thanh khoản của ngân hàng được quản lý một các hiệu quả và có các chính sách phù hợp để kiểm soát và hạn chế RRTK trong một thời gian cụ thể.

Nguyên tắc 4: Ngân hàng cần có hệ thống thông tin đầy đủ cho việc đo lường, theo dõi, kiểm soát và báo cáo RRTK. Các báo cáo cần được cung cấp kịp thời cho hội đồng quản trị của ngân hàng, các cán bộ quản lý cao cấp và các cán bộ có thẩm quyền khác.

Nguyên tắc 5: Ngân hàng cần xây dựng một quy trình cho việc theo dõi và

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 224 trang tài liệu này.


đo lường liên tục các yêu cầu cấp vốn ròng.

Quản trị rủi ro thanh khoản tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - 7

Nguyên tắc 6: Ngân hàng cần phân tích khả năng thanh khoản sử dụng nhiều tình huống dạng “ nếu - thì”.

Nguyên tắc 7: Ngân hàng cần xem xét một các thường xuyên những giả thiết được sử dụng trong việc quản lý khả năng thanh khoản để xác định xem giả thiết đó có giá trị hay không.

Nguyên tắc 8: Ngân hàng cần xem xét định kỳ các nỗ lực của mình trong việc xây dựng và duy trì quan hệ với những người nắm giữ tài sản nợ, để đa dạng hóa các tài sản Nợ và đảm bảo khả năng bán được tài sản có của mình.

Nguyên tắc 9: Ngân hàng cần có kế hoạch dự phòng bao gồm chiến lược xử lý các vấn đề về khả năng thanh khoản và quy trình xử lý sự suy giảm luồng tiền trong những tình huống khẩn cấp.

Nguyên tắc 10: Ngân hàng cần có một hệ thống đo lường, theo dõi và kiểm soát khả năng thanh toán đối với các ngoại tệ mạnh mà ngân hàng có kinh doanh. Ngoài việc đánh giá tình hình thanh khoản chung cho tất cả các ngoại tệ và những chênh lệch có thể chấp nhận được kết hợp với các cam kết về nội tệ, các ngân hàng cũng cần phân tích riêng rẽ chiến lược của mình với từng loại ngoại tệ.

Nguyên tắc 11: Dựa trên những phân tích được thực hiện theo nguyên tắc 10, khi cần thiết ngân hàng cần xác định và xem xét thường xuyên trong một khoản thời gian nhất định các giới hạn về quy mô của sự chênh lệch dòng tiền đối với toàn bộ các ngoại tệ và với từng ngoại tệ riêng lẻ mà ngân hàng có kinh doanh.

Nguyên tắc 12: Ngân hàng cần có một hệ thống kiểm soát nội bộ phù hợp với quy trình quản trị RRTK. Một thành phần cơ sở của hệ thống kiểm soát nội bộ là việc đánh giá và xem xét một cách độc lập tính hiệu quả của hệ thống và đảm bảo là việc kiểm soát nội bộ được tăng cường hoặc chỉnh sửa khi cần thiết. Kết quả của những đánh giá này cần được cung cấp cho cơ quan giám sát.

Nguyên tắc 13: Ngân hàng cần có một cơ chế đảm bảo một mức độ hợp lý về công việc công khai thông tin về ngân hàng để đảm bảo uy tín của ngân hàng trong công chúng.


Nguyên tắc 14: Cơ quan giám sát cần thực hiện việc đánh giá các chiến lược, chính sách của ngân hàng có liên quan đến công tác quản lý khả năng thanh khoản một cách độc lập. Các cơ quan giám sát cũng cần yêu cầu ngân hàng phải có một hệ thống hiệu quả để đo lường, theo dõi và kiểm soát RRTK. Cơ quan giám sát cũng cần được cung cấp các thông tin từ ngân hàng một cách đầy đủ và kịp thời để đánh giá mức độ rủi ro và đảm bảo rằng ngân hàng có các kế hoạch dự phòng về khả năng thanh khoản đầy đủ.

1.2.3.3. Quy trình quản trị rủi ro thanh khoản

a. Nhận diện RRTK

Trong quản lý RRTK, thì nhận biết trước nguy cơ tiềm ẩn RRTK có vai trò rất quan trọng, bởi vì nếu như RRTK thực sự xảy ra thì những tổn thất đem đến cho các ngân hàng thường là rất cao, thậm chí đẩy ngân hàng tới việc mất kiểm soát và phá sản. Những dấu hiệu chính cho biết nguy cơ tiềm ẩn RRTK là:

Thứ nhất, sự gia tăng tập trung của tài sản Có hoặc tài sản Nợ. Một ngân hàng hoạt động bình thường bao giờ cũng có sự cân xứng giữa tài sản Nợ và tài sản Có, bởi bản chất của hoạt động ngân hàng là huy động vốn hoặc đi vay để thực hiện các hoạt động ngân hàng, do vậy, giữa Nợ (là phần ngân hàng đi huy động vốn từ nền kinh tế hoặc đi vay từ các tổ chức tài chính khác hoặc từ NHTW) và tài sản (thể hiện việc sử dụng các nguồn vốn huy động được vào các danh mục tài sản khác nhau của ngân hàng) phải luôn có một sự kết hợp hài hoà. Bất cứ một sự bất cân xứng nào xảy ra và kéo dài thì đều tiềm ẩn nguy cơ RRTK. Chẳng hạn: nếu ngân hàng tập trung quá mức danh mục cho vay, trong khi hạng mục tiền mặt hoặc chứng khoán giảm, thì nguy cơ rủi ro sẽ rất cao, bởi vì hạng mục cho vay có tính lỏng kém nhất, nên nếu cầu thanh khoản tăng đột ngột sẽ khiến ngân hàng rất khó xử lý nếu như thị trường liên ngân hàng cũng căng thẳng về thanh khoản hoặc NHTW thực thi chính sách tiền tệ thắt thặt. Tình trạng cũng hoàn toàn tương tự khi ngân hàng tập trung quá mức hoạt động huy động vốn vào một loại tiền tệ trên một phạm vi thị trường và lệ thuộc vào một số khách hàng, thì những khó khăn nhất định có liên quan đến các khách hàng hay về loại tiền tệ nhất định… sẽ khiến ngân hàng khó


khăn trong huy động vốn và ngân hàng này sẽ đối mặt với RRTK…

Thứ hai, tốc độ tăng của các khoản vay lớn hơn tốc độ tăng của các khoản tiền gửi. Cho vay bao giờ cũng là hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng, chúng đem lại nguồn thu nhập chủ yếu của các ngân hàng. Chính vì thế, trong điều kiện bình thường, ngân hàng có xu hướng mở rộng cho vay. Tuy nhiên, việc mở rộng cho vay phải căn cứ vào vốn huy động. Nếu tăng trưởng dư nợ vượt tỷ lệ tăng trưởng huy động tiền gửi sẽ tiềm ẩn nguy cơ RRTK. Sở dĩ như vậy là vì hạng mục cho vay có tính lỏng rất thấp và vì thế, nếu ngân hàng phải xử lý nhu cầu thanh khoản cấp bách thì không thể trông đợi từ hạng mục này được. Hơn nữa, việc tăng trưởng trong cho vay vượt so với tăng trưởng huy động vốn có nghĩa là ngân hàng không đáp ứng được yêu cầu về dự trữ bắt buộc và thường phải trông đợi từ vốn vay trên thị trường liên ngân hàng. Điều này sẽ khiến các ngân hàng phải chấp nhận chi phí cao để xử lý RRTK.

Thứ ba, chất lượng tín dụng giảm sút. Chất lượng tín dụng phản ánh khả năng thu hồi về cho vay (cả gốc lẫn lãi). Chất lượng tín dụng giảm sút có nghĩa là sẽ có một bộ phận tín dụng đã cho khách hàng vay, nhưng khó thu hồi, thậm chí có nguy cơ sẽ bị mất vốn. Điều đó cũng có nghĩa là sẽ có một bộ phận vốn huy động trong nền kinh tế không được hoàn trả đúng hạn. Điều này sẽ gây khó khăn cho ngân hàng trong việc thực thi nghĩa vụ thanh toán của mình. Mặt khác, một khi chất lượng tín dụng giảm sút, xếp hạng tín nhiệm của ngân hàng trên thị trường sẽ bị giảm theo, điều này sẽ khó khăn cho ngân hàng trong việc huy động vốn để đáp ứng nguồn cung thanh khoản.

Thứ tư, chi phí tài trợ vốn trên thị trường tăng. Ngân hàng luôn đứng trước mâu thuẫn giữa việc tối đa hoá thu nhập và đảm bảo an toàn trong hoạt động. Để xử lý mâu thuẫn này, ngân hàng thường có xu hướng kết hợp giữa đáp ứng yêu cầu thanh khoản bằng cách tăng cường nắm giữ tài sản có tính lỏng cao, đồng thời, tăng cường vay vốn trên thị trường. Tuy nhiên, việc đáp ứng yêu cầu về thanh khoản thông qua việc vay mượn trên thị trường vốn cũng có những nhược điểm đó là sự lệ thuộc vào cung - cầu vốn thanh khoản trên thị trường tại thời điểm mà nhu cầu


thanh khoản phát sinh. Nếu tại thời điểm ngân hàng phát sinh nhu cầu về thanh khoản trong khi trên thị trường cung thanh khoản lại thấp hơn cầu thanh khoản thì khi đó lãi suất thị trường liên ngân hàng sẽ tăng cao, dẫn đến chi phí vay vốn sẽ tăng lên. Điều này khiến ngân hàng chịu RRTK.

NHTM cũng có thể tài trợ cho yêu cầu thanh khoản từ NHTW thông qua vay “cửa sổ chiết khấu”, nhưng cách này cũng sẽ khiến các ngân hàng chịu những phí tổn lớn, đó là những thủ tục để được cho vay, các ngân hàng có thể bị xếp vào danh sách “kiểm soát đặc biệt” của NHTW. Trường hợp không đủ điều kiện được cho vay có thể dẫn đến nguy cơ đổ vỡ ngân hàng.

Một cách khác mà ngân hàng cũng có thể tài trợ bằng cách bán các chứng khoán dài hạn hay bán các danh mục cho vay. Nhưng các cách này đều khiến chi phí tài trợ rất cao, do bị các ngân hàng khác hoặc là “ép giá”, hoặc bị mất uy tín và giảm định mức tín nhiệm trên thị trường.

Thứ năm, sự tập trung vào các nguồn tài trợ vốn trên thị trường bán buôn. Nếu các ngân hàng tập trung vào nguồn vốn tài trợ trên thị trường bán buôn mà không chú trọng vào thị trường bán lẻ thì nguồn tài trợ sẽ không ổn định và thực tế đã chỉ ra rằng việc tài trợ từ thị trường bán buôn chi phí sẽ cao hơn so với việc tài trợ vốn từ thị trường bán lẻ. Nguyên nhân là do mặc dù việc huy động vốn từ thị trường bán lẻ có vẻ chi phí huy động vốn là cao, song nguồn vốn này lại rất ổn định, vì đa phần những người gửi tiền tiết kiệm là không rút ra, vì thế cho dù những người gửi tiền với kỳ hạn ngắn, song thực chất là dài hạn, chính vì thế, các ngân hàng có thể sử dụng nguồn vốn huy động từ thị trường bán lẻ để cho vay dài hạn hơn, cho nên hiệu quả vẫn cao hơn.

Ngoài ra, nguy cơ tiềm ẩn RRTK còn được nhận biết qua một số dấu hiệu khác như: sự suy giảm của nguồn tiền cung cấp cho ngân hàng trên thị trường bán buôn; tiền gửi của dân cư bị rút ra nhiều hơn; tiền gửi có kỳ hạn bị rút trước hạn gia tăng; lãi suất huy động vốn của các ngân hàng đã có những diễn biến bất thường; lãi suất trên thị trường liên ngân hàng tăng lên nhanh chóng...


b. Đo lường RRTK

Phát hiện các dấu hiệu RRTK tiềm ẩn là bước quan trọng giúp ngân hàng có các giải pháp phòng vệ phù hợp, việc sử dụng các cách thức, biện pháp và công cụ nào trong phòng vệ RRTK phụ thuộc rất lớn vào bước đo lường mức độ RRTK này. Việc đo lường RRTK có thể thực hiện bằng nhiều phương pháp khác nhau, theo Peter [120] thì có thể đo lường RRTK thông qua các phương pháp sau đây:

(1) Phương pháp tiếp cận nguồn vốn – sử dụng vốn:

Phương pháp này tập trung vào đo lường những thay đổi dự tính trong tiền gửi và cho vay của ngân hàng bắt nguồn từ thực tế đơn giản sau: (i) khả năng thanh khoản của ngân hàng tăng khi tiền gửi tăng và cho vay giảm; (ii) khả năng thanh khoản của ngân hàng giảm khi tiền gửi giảm và cho vay tăng.

Sơ đồ 1.4: Các bước tính toán trạng thái thanh khoản ngân hàng kỳ kế hoạch


Bước 1:

Ước lượng nhu cầu vay vốn và nhu cầu gửi tiền trong giai đoạn cần ước tính trạng thái thanh khoản (kỳ kế hoạch).

Bước 2:

Tính toán các thay đổi dự tính trong kỳ kế hoạch của nhu cầu vay vốn và nhu cầu gửi tiền.

Bước 3:

Xác định trạng thái

thanh

khoản

ròng

của ngân hàng trong kỳ kế hoạch.

Các bước cơ bản trong phương pháp tiếp cận nguồn vốn và sử dụng vốn như Sơ đồ 1.4:

Bước 1: Ước lượng nhu cầu vay vốn và gửi tiền trong kỳ kế hoạch thông qua phương pháp xây dựng các mô hình dự báo hoặc xây dựng đường xu hướng. Việc xây dựng các mô hình dự báo được thực hiện qua việc áp dụng các mô hình kinh tế lượng. Các nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu vay vốn và gửi tiền của khách hàng được xác định, từ đó lập ra hàm tổng cho vay và hàm tổng tiền gửi:

F(cho vay)= f(tăng trưởng, thu nhập DN, cung tiền, lãi suất cho vay, lạm phát…) F(tiền gửi)= f(thu nhập dân cư, mức bán lẻ, cung tiền, lãi suất tiền gửi, lạm phát…)

Việc xây dựng đường xu hướng được thực hiện qua việc đánh giá sự tăng trưởng của tiền gửi và cho vay thành 3 bộ phận chính là:

Phần xu hướng: Mức tăng theo tốc độ tăng trưởng trong dài hạn, được tính bằng việc thu thập số liệu thực tế trong nhiều năm và chạy mô hình kinh tế lượng để


có được hàm tăng trưởng bình quân hàng năm.

Phần mùa vụ: Mức tăng trưởng khác so với xu hướng do tác động của các yếu tố mùa vụ tại những thời điểm nhất định, được tính bằng việc thu thập số liệu trong quá khứ và giả định tốc độ tăng kỳ kế hoạch bằng tốc độ tăng kì trước đó.

Phần chu kì: Mức chênh lệch giữa thực tế và dự báo, được tính bằng chênh lệch giữa dự tính bằng xu hướng và mùa vụ của kì trước với thực tế tiền gửi, cho vay của kỳ đó.

Tổng tiền gửi, cho vay dự tính trong tháng (hoặc kì kế hoạch) = Tiền gửi, cho vay thực tế tháng trước (kì trước) + phần xu hướng + phần mùa vụ + phần chu kì.

Bước 2: Tính toán các thay đổi dự tính trong kỳ kế hoạch. Việc tính toán được thực hiện theo các phương pháp sau đây: Theo phương pháp sử dụng mô hình dự báo:

Δ(cho vay) = f(% GDP, thu nhập doanh nghiệp, MS, i, π…) Δ(tiền gửi) = f(% GDP per capita, mức bán lẻ, MS, i, π…)

Theo phương pháp đường xu hướng:

Δ(TG, CV) = Tổng tiền gửi, cho vay dự tính trong tháng (hoặc kì kế hoạch)

- Tổng tiền gửi, cho vay trong tháng trước (hoặc kì trước)

Bước 3: Xác định trạng thái thanh khoản ròng trong kỳ kế hoạch. Trạng thái thanh khoản ròng được xác định như sau:

Độ lệch thanh khoản = Tổng cung thanh khoản (1) - Tổng cầu thanh khoản (2)

Khi (1) > (2): Độ lệch thanh khoản dương. ngân hàng phải đầu tư ngay phần thanh khoản thặng dư này để sinh lợi.

Khi (2) > (1): Độ lệch thanh khoản âm. ngân hàng phải tìm kiếm ngay các nguồn tài trợ khác nhau với chi phí thấp nhất.

Khi (2) = (1): ngân hàng có trạng thái thanh khoản lý tưởng, tuy nhiên đây là trường hợp hiếm khi xảy ra trên thực tế.

(2) Phương pháp tiếp cận cấu trúc vốn:

Trong phương pháp này, các nhà quản lý không quan tâm đến các nguồn cung thanh khoản, mà chỉ quan tâm đến cầu thanh khoản - tức là thực hiện ước lượng dự


trữ thanh khoản kỳ kế hoạch cho hai nhu cầu chính là hoàn trả các khoản tiền gửi, tiền vay và giải ngân cho các khoản tín dụng. Trong đó, nguồn vốn được chia thành các nhóm dựa trên khả năng bị rút ra khỏi ngân hàng với mức dự trữ thanh khoản được tính cho từng nhóm theo tỉ lệ dự trữ khác nhau.

Sơ đồ 1.5: Các bước xác định nhu cầu thanh khoản của ngân hàng kỳ kế hoạch


Bước 1: Chia nguồn vốn thành nhóm theo

xác suất bị rút khỏi ngân hàng

Bước 2: Tính yêu cầu dự trữ thanh khoản với từng nhóm

Bước 3: Tính yêu cầu dự trữ thanh khoản của tổng vốn tiền gửi, vay

Bước 4: Xác định yêu cầu vốn cho các khoản vay chất lượng cao

Bước 5: Xác định tổng nhu cầu thanh khoản

Các bước cụ thể bao gồm (Sơ đồ 1.5):

Bước 1: Chia nguồn vốn tiền gửi, phi tiền gửi thành các nhóm căn cứ vào xác suất bị rút khỏi ngân hàng: (i) Nguồn vốn nóng (các khoản tiền gửi, tiền vay rất nhạy cảm với lãi suất hoặc được dự tính chắc chắn sẽ bị rút khỏi ngân hàng trong kỳ kế hoạch); (ii) Nguồn vốn kém ổn định (các khoản tiền gửi, tiền vay của ngân hàng mà một phần đáng kể (25% - 30%) được dự tính sẽ bị rút trong kỳ kế hoạch); (iii) Nguồn vốn ổn định (các khoản tiền gửi, tiền vay của ngân hàng được tin tưởng chắc chắn, ngoài một bộ phận không đáng kể, sẽ ít có khả năng bị rút ra trong kỳ).

Bước 2: Xác định dự trữ thanh khoản với mỗi nhóm nguồn vốn. Yêu cầu dự trữ thanh khoản đối với mỗi nhóm vốn được tính dựa vào tỉ lệ dự trữ thanh khoản của từng nhóm. Tỉ lệ dữ trữ này được xác định tỉ lệ nghịch với mức độ ổn định của nguồn vốn: thường ở mức 90% - 95% nguồn vốn nóng còn lại sau khi trích dự trữ bắt buộc, 30% nguồn vốn kém ổn định sau khi trích dự trữ bắt buộc và 15% nguồn vốn ổn định sau khi trích dự trữ bắt buộc.

Bước 3: Cầu thanh khoản cho tiền gửi của khách hàng và tiền vay của ngân hàng được tính bằng tổng yêu cầu thanh khoản của các nhóm nguồn vốn trên.

95% (Vốn nóng - DTBB)

Dự trữ thanh khoản cho tiền gửi, tiền vay =

30% (Vốn kém ổn định - DTBB) 15% (Vốn ổn định - DTBB)

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 13/05/2023