Những Vấn Đề Chung Về Rủi Ro Thanh Khoản Ngân Hàng


đoạn 2011-2016.

- Luận án cũng kế thừa, vận dụng một số kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đến nội dung nghiên cứu để làm sâu sắc thêm các luận điểm trong đề tài luận án.

- Một điểm mới quan trọng của luận án là đã sử dụng mô hình kinh tế lượng để đánh giá vấn đề rủi ro thanh khoản của ngân hàng Agribank. Dựa theo gợi ý của Saunders và Cornett (2006), Luận án sử dụng phương pháp ước lượng RRTK thông qua khe hở tài trợ. Khi nghiên cứu về tình hình thanh khoản của Agribank vì quy mô hoạt động của các chi nhánh trong ngân hàng là rất lớn, nhiều khi tương đương với một NHTM, nên trong Luận án sẽ đánh giá mức độ RRTK tại 25 chi nhánh, từ đó sẽ cho phép ước lượng mức độ RRTK của toàn hệ thống. Để xác định nhân tố ảnh hưởng đến RRTK, Luận án lựa chọn các biến dựa trên mô hình của Chung (2009), sau đó tiến hành bổ sung hoặc lược bỏ một số biến cho phù hợp với tình hình Việt Nam nói chung cũng như tại Agribank nói riêng [124], [89].

Luận án sử dụng phương pháp phân tích dữ liệu bảng (panel data) với chuỗi dữ liệu thay đổi theo thời gian (6 năm, từ 2011-2016) và không gian (25 chi nhánh thuộc Agribank). Có ba cách tiếp cận dữ liệu bảng phổ biến là Pooled OLS, FEM và REM. Pooled OLS là cách tiếp cận dữ liệu bảng bằng cách xếp chồng tất cả các quan sát với nhau, bỏ qua bình diện không gian và thời gian và chỉ ước lượng bằng mô hình OLS bình thường, do đó các hệ số hồi quy là và được giả định là như nhau cho tất cả các quan sát. FEM giúp phân tách ảnh hưởng của các đặc điểm riêng biệt ra khỏi các biến độc lập để ước lượng những ảnh hưởng thực của biến độc lập lên biến phụ thuộc. Điều này có nghĩa là khi xét đến các hiệu ứng của không gian và thời gian, các tung độ gốc sẽ thay đổi khác nhau đối với từng Chi nhánh. Tuy nhiên, do chuỗi dữ liệu sử dụng trong Luận án có thời gian ngắn nên sử dụng cách tiếp cận này cũng khiến ước lượng của mô hình có thể bị chệch.

REM giả định rằng đặc điểm riêng giữa các Chi nhánh được giả sử là ngẫu nhiên. Bên cạnh đó, mô hình này có thể thiếu biến, nên có thể cho ra kết quả ước lượng không chính xác.


Trong khi Chung (2009) sử dụng mô hình FEM để giải thích kết quả, nhưng do những hạn chế của mô hình nên luận án này sẽ hồi quy cả ba mô hình Pooled OLS, FEM và REM - sau đó kiểm tra sự thích hợp giữa mô hình Pooled OLS và mô hình REM dựa trên kiểm định Breusch-Pagan [89].

Hệ thống các biến sử dụng trong mô hình gồm có biến số kinh tế vĩ mô và biến phản ánh nội tại ngân hàng. Các biến thuộc nhóm nhân tố khách quan bao gồm tốc độ tăng trưởng GDP (%), tỷ lệ lạm phát (%) và tốc độ tăng cung tiền M2 trong giai đoạn 2011-2016 được Luận án tổng hợp từ website của Ngân hàng Thế giới và báo cáo số liệu của Tổng cục Thống kê.

Nhóm các nhân tố chủ quan ảnh hưởng đến rủi ro thanh khoản FGAPR được tác giả tổng hợp từ báo cáo tài chính đã được kiểm toán của 25 chi nhánh thuộc Agribank trên cả nước trong giai đoạn 2011-2016. Nhìn chung, quy mô của nhiều chi nhánh Agribank khá lớn, có thể tương đương quy mô của một số NHTMCP trong nước. Việc tính toán các chỉ số để phục vụ đề tài nghiên cứu được tổng hợp từ các báo cáo tài chính của Agribank. Nhìn chung, nguồn số liệu phục vụ cho các nghiên cứu định lượng trong phạm vi luận án là đáng tin cậy.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 224 trang tài liệu này.

6. Những đóng góp của đề tài

Thứ nhất, hệ thống hóa và làm rõ hơn các vấn đề lý luận liên quan đến quản trị RRTK trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Trong đó các điểm mới nổi bật của đề tài về mặt lý luận là đã tổng hợp được mô hình quản trị RRTK hiện đại trong ngân hàng. Đồng thời, luận án cũng đã trình bày 6 phương pháp đo lường RRTK. Đây là những phương pháp hàm chứa nội dung toán học và kinh tế lượng chuẩn xác có khả năng ứng dụng trong thực tiễn.

Quản trị rủi ro thanh khoản tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - 4

Thứ hai, nghiên cứu có hệ thống những kinh nghiệm của các nước về quản trị RRTK từ một số NHTM trong và ngoài nước, qua đó, rút ra những bài học kinh nghiệm có giá trị mà Agribank có thể nghiên cứu và vận dụng trong quản trị RRTK trong điều kiện hội nhập tài chính khu vực và quốc tế hiện nay.

Thứ ba, phân tích có hệ thống thực trạng quản trị RRTK tại Agribank giai

đoạn 2009 - 2016, qua đó chỉ ra những kết quả đạt được, những vấn đề còn tồn tại


hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong quản trị RRTK. Luận án đã sử dụng 8 chỉ số để đánh giá RRTK của ngân hàng Agribank trong giai đoạn 2011- 2016. Đây là thành công mà chưa có luận án nào làm được. Đồng thời, tác giả cũng đã sử dụng mô hình kinh tế lượng để lượng hóa RRTK của các chi nhánh ngân hàng Agribank.

Thứ tư, trên cơ sở những định hướng hoạt động kinh doanh ngân hàng của Agribank, những dự báo về môi trường kinh tế vĩ mô và các quan điểm về quản trị RRTK trong ngân hàng, luận án đã đề xuất hệ thống các nhóm giải pháp và kiến nghị đối với công tác quản trị RRTK tại Agribank thời gian tới. Các giải pháp dựa trên cơ sở khoa học và thực tiễn đầy đủ, có tác động mạnh đến cân đối nguồn và nhu cầu sử dụng vốn, hoàn toàn phù hợp trong quản trị RRTK của NHTM.

7. Kết cấu của Luận án

Ngoài phần mở đầu và kết luận, Luận án được chia làm 03 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về quản trị RRTK ở ngân hàng thương mại.

Chương 2: Thực trạng quản trị RRTK tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam.

Chương 3: Giải pháp quản trị RRTK tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam.


CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO THANH KHOẢN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI


1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ RỦI RO THANH KHOẢN NGÂN HÀNG

1.1.1. Khái niệm về rủi ro thanh khoản

1.1.1.1. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng

Có nhiều quan niệm khác nhau về rủi ro tùy theo cách tiếp cận vấn đề:

Theo trường phái truyền thống, rủi ro được xem là sự không may mắn, sự tổn thất mất mát, nguy hiểm, là điều không tốt bất ngờ xảy đến. Đó là sự tổn thất về tài sản hay là sự giảm sút lợi nhuận thực tế so với lợi nhuận dự kiến. Rủi ro còn được hiểu là những bất trắc ngoài ý muốn xảy ra trong quá trình kinh doanh, sản xuất của doanh nghiệp, tác động xấu đến sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp. Tóm lại, theo quan điểm này thì rủi ro là những khả năng xảy ra thiệt hại, mất mát, nguy hiểm hoặc các yếu tố liên quan đến nguy hiểm, khó khăn hoặc điều không chắc chắn có thể xảy ra cho con người.

Theo trường phái hiện đại, rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được, vừa mang tính tích cực, vừa mang tính tiêu cực. Rủi ro có thể mang đến những tổn thất mất mát cho con người nhưng cũng có thể mang lại những lợi ích, những cơ hội. Nếu tích cực nghiên cứu rủi ro, người ta có thể tìm ra những biện pháp phòng ngừa, hạn chế những rủi ro tiêu cực, đón nhận những cơ hội mang lại kết quả tốt đẹp cho tương lai [142].

Như vậy, hiểu một cách chung nhất, rủi ro là những biến cố xảy ra ngoài ý muốn của con người. Rủi ro xuất hiện bao giờ cũng gây ra những hậu quả không mong muốn về cuộc sống và tài chính.

Có thể hiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng là nguy cơ, khả năng thiệt hại mà NHTM phải gánh chịu gắn với hoạt động kinh doanh của mình. Những thiệt hại này có thể dưới dạng mất vốn, đọng vốn, chuyển hóa vốn (tính thanh khoản thấp của các danh mục đầu tư).


Có nhiều cách khác nhau để tiếp cận rủi ro trong kinh doanh ngân hàng, tuy nhiên có thể tiếp cận theo các góc độ chính đó là các rủi ro có nguồn gốc nội tại và các rủi ro về mặt hệ thống.

Các rủi ro có nguồn gốc nội tại bao gồm: RRTD, RRTK, rủi ro lãi suất, rủi ro hối đoái, rủi ro phá sản.

Các rủi ro về mặt hệ thống bao gồm: rủi ro lạm phát, rủi ro công nghệ, rủi ro thay đổi môi trường pháp lý, rủi ro về chu kỳ kinh tế, sự biến động của các yếu tố thị trường.

1.1.1.2. Thanh khoản của ngân hàng thương mại

Trong tài chính, thuật ngữ “thanh khoản” được sử dụng trong nhiều phạm vi khác nhau. Dưới góc độ tài sản, thanh khoản được hiểu là khả năng chuyển hóa thành tiền của tài sản và ngược lại. Một tài sản được xem là thanh khoản khi đáp ứng được các tiêu chí sau: Có sẵn số lượng để mua hoặc bán, có sẵn thị trường giao dịch, có sẵn thời gian giao dịch, giá cả hợp lý. Theo Peter (2004), một tài sản có tính thanh khoản cao nếu nó thỏa mãn đồng thời hai đặc điểm: có thị trường giao dịch để có thể chuyển hóa tài sản thành tiền và; có giá cả tương đối ổn định, không bị ảnh hưởng bởi số lượng và thời gian giao dịch [117].

Như vậy, tính thanh khoản của tài sản được đo lường thông qua thời gian và chi phí để chuyển hóa tài sản thành tiền. Tài sản có tính thanh khoản cao là tài sản chuyển đổi thành tiền nhanh và chi phí thấp.

Theo bộ quy tắc về “Nguyên tắc quản lý và giám sát RRTK” của BIS (2013), “Thanh khoản là khả năng của ngân hàng vừa có thể tăng thêm tài sản vừa đáp ứng các nghĩa vụ nợ khi đến hạn mà không bị những thiệt hại quá mức cho phép” [80].

Từ đó, định nghĩa cơ bản nhất của thanh khoản sẽ là: “Thanh khoản đại diện cho khả năng ngân hàng có thể thực hiện tất cả các nghĩa vụ thanh toán khi đến hạn (đến mức tối đa) và theo đơn vị tiền tệ được quy định. Do thực hiện bằng tiền nên thanh khoản chỉ liên quan đến các dòng lưu chuyển tiền. Việc không thể thực hiện nghĩa vụ thanh toán sẽ dẫn đến tình trạng thiếu khả năng thanh khoản”.


Vấn đề thanh khoản chỉ xuất hiện khi ngân hàng đứng trước nhu cầu rút tiền từ khách hàng. Khi đó ngân hàng không chỉ lo cân đối nhu cầu rút tiền với lượng tiền hiện có, mà còn là cân đối với khả năng huy động vốn tiếp theo. Vì thế việc đánh giá tính thanh khoản của ngân hàng phải nhìn ở trạng thái động, tức là cần phải được xem xét trong tương quan cung – cầu vốn khả dụng của ngân hàng trong từng giai đoạn nhất định.

Cung thanh khoản là số tiền có sẵn hoặc có thể có trong thời gian ngắn để

ngân hàng sử dụng. Luồng tiền vào này được tạo nên từ các nguồn:

- Các khoản tiền gửi sẽ nhận được

- Thu nhập từ việc cung cấp các dịch vụ

- Các khoản tín dụng sẽ thu về

- Bán các tài sản đang kinh doanh và sử dụng

- Vay mượn từ thị trường tiền tệ

Cầu về thanh khoản phản ánh nhu cầu rút tiền khỏi ngân hàng ở những thời

điểm khác nhau. Nhu cầu này phụ thuộc vào các nhân tố sau:

- Khách hàng rút các khoản tiền gửi

- Đề nghị vay vốn của khách hàng

- Thanh toán các khoản phải trả khác

- Chi phí cho quá trình tạo ra sản phẩm và dịch vụ ngân hàng

- Thanh toán cổ tức cho cổ đông

Trạng thái thanh khoản ròng (NLP) được tính theo công thức sau: NLP = ∑cung thanh khoản - ∑cầu thanh khoản

Như vậy, trạng thái thanh khoản ròng là chênh lệch giữa tổng cung và tổng cầu thanh khoản tại một thời điểm. Nếu cầu thanh khoản vượt quá cung thanh khoản, ngân hàng sẽ phải đối mặt với trạng thái thâm hụt thanh khoản, tức ngân hàng đang thiếu hụt tiền để chi trả. Để tiếp tục tồn tại, ngân hàng phải xác định bổ sung thanh khoản ngay từ nguồn nào và với chi phí bao nhiêu để giúp ngân hàng trở lại trạng thái cân bằng thanh khoản. Ngược lại, tình trạng cung thanh khoản vượt


cầu thanh khoản cũng có thể xảy ra. Trạng thái dư thừa thanh khoản cũng mang lại những thiệt hại cho ngân hàng do ngân hàng đang dư tiền dự trữ không sinh lời.

1.1.1.3. Rủi ro thanh khoản của ngân hàng

Có nhiều quan niệm về RRTK. Cụ thể:

RRTK là loại rủi ro khi ngân hàng không có khả năng cung ứng đầy đủ lượng tiền mặt cho nhu cầu thanh toán tức thời, hoặc cung ứng đủ thanh khoản với chi phí cao hoặc quá cao [24].

RRTK có thể được hiểu là rủi ro khi NHTM không có khả năng thanh toán tại một thời điểm nào đó, hoặc phải huy động các nguồn vốn với chi phí cao để đáp ứng nhu cầu thanh toán, hoặc do nguyên nhân chủ quan khác làm mất khả năng thanh toán của NHTM, theo đó sẽ kéo theo những hệ quả không mong muốn [43].

RRTK xảy ra khi một tổ chức không có đủ khả năng tài trợ cho sự tăng lên trong tài sản và đáp ứng các nghĩa vụ thanh toán khi đến hạn mà không làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh hàng ngày và cũng không gây tác động đến tình hình tài chính [67].

Dưới góc độ quản trị thanh khoản ngân hàng thì tình trạng RRTK cao hay thấp đề diễn tả tình trạng mất cân bằng của ngân hàng. Trường hợp thặng dư thanh khoản, tức RRTK thấp, xảy ra khi nền kinh tế hoạt động kém hiệu quả, thiếu các cơ hội kinh doanh hay đầu tư, NHTM thiếu các phương pháp và khả năng tiếp cận khách hàng, thị trường, không khai thác hết những tài sản có khả năng sinh lời, nguồn vốn tăng trưởng quá nhanh so quy mô hoạt động và năng lực quản lý. Trong trường hợp RRTK cao - xảy ra khi ngân hàng không có đủ vốn hoạt động, sẽ gây nên những vấn đề nghiêm trọng đối với sự tồn tại và phát triển của ngân hàng như mất đi các cơ hội kinh doanh, mất khách hàng, mất thị trường, sụt giảm lòng tin của công chúng [50].

Như vậy có thể thấy có nhiều cách tiếp cận khác nhau về RRTK, song đều thống nhất nhận định rằng RRTK phát sinh từ trạng thái mà ngân hàng không có đủ vốn khả dụng vào thời điểm mà ngân hàng cần để đáp ứng các nhu cầu thanh khoản. Khi RRTK xảy ra đều gây ra các tổn thất về tài chính và uy tín cho ngân hàng.


Một cách chung nhất có thể hiểu: RRTK là những tổn thất tiềm năng về tài chính, thương hiệu có thể xảy ra do ngân hàng không có khả năng hoặc không có đủ năng lực thực hiện nghĩa vụ chi trả và thanh toán một cách đầy đủ và đúng hạn theo cam kết.

RRTK không phải là rủi ro đơn lẻ (isolated risk) như rủi ro thị trường hay RRTD, mà là loại rủi ro mang tính hệ quả (consequential risk), bởi lẽ ngoài các nguyên nhân mang tính đặc thù, RRTK còn có thể bắt nguồn và chuyển biến xấu dưới tác động của các rủi ro phi tài chính và rủi ro tài chính khác trong hoạt động của ngân hàng.

Mặc dù có rất nhiều cách khác nhau để định nghĩa RRTK, song trong bất kỳ định nghĩa nào, khái niệm nào, RRTK luôn luôn được khẳng định là tổn thất xảy ra cho ngân hàng. Đây là rủi ro quan trong bậc nhất đối với một tổ chức kinh tế, đặc biệt là ngân hàng. Ở mức nặng có thể gây nên phá sản do tài sản không bù đắp nổi khả năng thanh toán trong thời điểm đó. Ở mức nhẹ hơn, rủi ro này có thể gây nên khó khăn hoặc đình trệ hoạt động kinh doanh của tổ chức đó trong một thời điểm cụ thể. Nói chung, trạng thái này tác động xấu tới uy tín, thu nhập và khả năng thanh toán cuối cùng của NHTM.

1.1.2. Các loại rủi ro thanh khoản ngân hàng

Có nhiều cách phân loại RRTK khác nhau dựa theo cấu trúc hoặc theo nguồn vốn, tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu đều thống nhất cách tiếp cận phân loại RRTK nguồn vốn và RRTK thị trường.

1.1.2.1. Rủi ro thanh khoản nguồn vốn

Theo BCBS (2006) thì “RRTK nguồn vốn là rủi ro mà một định chế tài chính không đủ khả năng tìm kiếm đầy đủ nguồn vốn để đáp ứng các nghĩa vụ đến hạn mà không làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh hàng ngày và cũng không gây tác động đến tình hình tài chính” [71].

Theo IMF (2010) thì “RRTK nguồn vốn là khả năng một trung gian tài chính không thể đáp ứng các nghĩa vụ nợ của họ khi nó đến hạn” [108].

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 13/05/2023