Quản trị chi nhánh tại ngân hàng đa quốc gia: Kinh nghiệm của ngân hàng Mizuho Corporate, Ltd và bài học cho các ngân hàng thương mại Việt Nam - 1


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

---------------


TRẦN THỊ HỒNG CẢO


QUẢN TRỊ CHI NHÁNH TẠI NGÂN HÀNG ĐA QUỐC GIA – KINH NGHIỆM CỦA NGÂN HÀNG MUZUHO CORPORATE, LTD VÀ BÀI HỌC CHO CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM


LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 152 trang tài liệu này.


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

Quản trị chi nhánh tại ngân hàng đa quốc gia: Kinh nghiệm của ngân hàng Mizuho Corporate, Ltd và bài học cho các ngân hàng thương mại Việt Nam - 1

TS. NGUYỄN THANH MINH


Hà Nội, 2010


1


PHẦN MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài


Ngày 07 tháng 11 năm 2006, Việt Nam chính thức gia nhập trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO. Sự kiện này là một mốc son lịch sử đánh dấu quá trình phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế thế giới của Việt Nam. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, bên cạnh tính cạnh tranh ngày càng khốc liệt, chúng ta tiếp nhận từ các tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới không chỉ ở nguồn vốn lớn, khoa học công nghệ, kỹ thuật hiện đại mà tiếp nhận cả kinh nghiệm quản trị công ty của họ. Với sự phát triển và hội nhập nền kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, Việt Nam tất yếu sẽ hình thành các tập đoàn kinh tế mang tầm cỡ quốc tế vươn chi nhánh hoạt động tới các nước trong khu vực và thế giới trở thành các công ty, tập đoàn đa quốc gia. Mặt khác, hiện nay Việt Nam đang phải thực hiện lộ trình mở cửa đối với lĩnh vực ngân hàng. Đã có một số ngân hàng 100% vốn nước ngoài được phép thành lập tại Việt Nam. Với sức hấp dẫn của thị trường Việt Nam, nhiều quỹ và công ty tài chính đang tích cực đầu tư vào Việt nam nên sự cạnh tranh trong lĩnh vực tài chính ngân hàng ngày càng mạnh mẽ. Trong điều kiện như vậy, các Ngân hàng Thương mại Việt Nam muốn tồn tại và hoạt động vững mạnh trên thị trường trong nước cũng như trên trường quốc tế trong tương lai đòi hỏi các ngân hàng không chỉ phải có nguồn vốn lớn, khoa học công nghệ kỹ thuật hiện đại, đội ngũ nhân lực có trình độ cao mà còn là vấn đề hiệu quả quản trị chi nhánh, hiệu quả quản trị toàn hệ thống ngân hàng. Với ý nghĩa và tính cấp thiết về vấn đề quản trị chi nhánh của các ngân hàng, học viên xin được tìm hiểu và nghiên cứu về đề tài: "Quản trị chi nhánh tại ngân hàng đa quốc gia: Kinh nghiệm của Ngân hàng Mizuho Corporate Bank, Ltd và bài học cho các Ngân hàng Thương mại Việt Nam" với hy vọng góp một phần nhỏ bé vào công cuộc nâng cao trình độ quản trị chi nhánh của hệ thống Ngân hàng Thương mại Việt Nam, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước. Đồng thời, học viên lựa chọn đề tài này để làm luận văn tốt nghiệp Cao học chuyên ngành Quản trị Kinh doanh tại trường Đại học Ngoại thương Hà Nội.


2


2. Tình hình nghiên cứu


Liên quan đến đề tài về các tập đoàn hay công ty đa quốc gia, đã có một số đề tài đề cập đến nhưng chỉ tập trung vào các vấn đề chuyển giao công nghệ, vốn giữa các chi nhánh của tập đoàn đa quốc gia. Hiện tại chưa có đề tài nào nghiên cứu về vấn đề tương tự như đề tài luận văn tiến hành nghiên cứu ở trên. Trên cơ sở phân tích và kế thừa các công trình nghiên cứu của những người đi trước, học viên tiến hành nghiên cứu một cách tổng thể về một số mô hình quản trị chi nhánh cơ bản của ngân hàng đa quốc gia trong đó đi sâu nghiên cứu hoạt động quản trị chi nhánh của Ngân hàng Mizuho Corporate Bank, Ltd từ đó rút ra một số kinh nghiệm trong quản trị chi nhánh có thể áp dụng trong quản trị chi nhánh của các Ngân hàng Thương mại Việt Nam.

3. Mục đích nghiên cứu


Mục đích nghiên cứu của đề tài là đi sâu tìm hiểu hoạt động quản trị chi nhánh của Ngân hàng Mizuho Corporate Bank, Ltd từ đó rút ra một số bài học giúp nâng cao năng lực quản trị chi nhánh của các Ngân hàng Thương mại Việt Nam.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu


- Tìm hiểu một số vấn đề cơ bản về quản trị chi nhánh của các ngân hàng đa quốc gia.

- Tìm hiểu hoạt động quản trị chi nhánh của Ngân hàng đa quốc gia Mizuho Corporate Bank, Ltd.

- Rút ra bài học kinh nghiệm giúp các Ngân hàng Thương mại Việt Nam quản trị chi nhánh một cách hiệu quả.

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


- Đối tượng nghiên cứu: nghiên cứu hoạt động quản trị chi nhánh của Ngân hàng Mizuho Corporate Bank, Ltd và các Ngân hàng Thương mại Việt Nam.


3


- Phạm vi nghiên cứu: luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề liên quan đến quản trị chi nhánh của Ngân hàng Mizuho Corporate Bank, Ltd và của các Ngân hàng Thương mại Việt nam.

6. Phương pháp nghiên cứu


Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học phổ biến, đặc biệt là kết hợp phương pháp định lượng và định tính trong nghiên cứu lý luận cũng như trong đánh giá thực tiễn và đề xuất giải pháp.

7. Kết cấu của luận văn


Ngoài lời mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của luận văn được chia thành ba phần tương ứng với ba chương:

Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về quản trị chi nhánh trong các ngân hàng đa quốc gia.

Chương 2: Nghiên cứu hoạt động quản trị chi nhánh của Ngân hàng đa quốc gia Mizuho Corporate Bank, Ltd

Chương 3: Một số đề xuất nhằm áp dụng bài học kinh nghiệm trong quản trị chi nhánh của MHCB đối với các Ngân hàng Thương mại Việt Nam.

Trong luận văn còn có nhiều vấn đề chưa được nghiên cứu và đưa ra các biện pháp ứng dụng hiệu quả vào Ngân hàng Thương mại Việt nam nên đề tài còn cần nhiều đóng góp ý kiến và thảo luận thêm. Học viên rất mong nhận được ý kiến đóng góp của Quý Thầy Cô và các bạn thông qua địa chỉ email: caotran168@gmail.comhoặc số điện thoại: 0912 269 585.


Xin trân trọng cảm ơn!


Hà Nội, ngày 02 tháng 03 năm 2010.


4‌


CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN TRỊ CHI NHÁNH TRONG CÁC NGÂN HÀNG ĐA QUỐC GIA

1.1. Một số vấn đề cơ bản về ngân hàng đa quốc gia


1.1.1. Một số khái niệm cơ bản


Khái niệm về công ty đa quốc gia: Ngân hàng đa quốc gia là một thực thể cụ thể của công ty đa quốc gia nên trước khi tìm hiểu khái niệm cơ bản về ngân hàng đa quốc gia, chúng ta sẽ tìm hiểu thế nào là công ty đa quốc gia. Theo từ điển Wipkipedia: "Công ty đa quốc gia, thường viết tắt là MNC (Multinational Corporation) hoặc MNE (Multinational Enterprises) là công ty sản xuất hoặc cung cấp dịch vụ ở ít nhất hai quốc gia" [7, tr. 10]. Nhiều công ty đa quốc gia lớn có ngân sách vượt cả ngân sách của nhiều quốc gia. Công ty đa quốc gia có thể có ảnh hưởng lớn đến các mối quan hệ quốc tế và nền kinh tế của các quốc gia. Chúng đóng một vai trò quan trọng trong quá trình toàn cầu hoá. Thông thường các công ty đa quốc gia thường tạo ra các phiên bản nhỏ của chính nó ở mỗi công ty.

Định nghĩa khác về công ty đa quốc gia:


Công ty đa quốc gia là doanh nghiệp có hoạt động trên khắp thế giới với thị trường và hoạt động sản xuất ở nước ngoài cộng với triết lý toàn cầu được hợp nhất bao gồm cả các hoạt động ở trong nước và ở nước ngoài. Một công ty đa quốc gia thường sử dụng hầu hết các dạng hoạt động kinh doanh quốc tế như xuất khẩu, hoạt động cấp phép kinh doanh (licence), đầu tư nước ngoài gián tiếp và trực tiếp [4, tr. 15].

Định nghĩa công ty đa quốc gia của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD):

Một công ty đa quốc gia bao gồm nhiều công ty hay thực thể kinh tế. Những thực thể này có thể thuộc quyền sở hữu cá nhân, thuộc quyền sở hữu nhà nước hay


5


sở hữu hỗn hợp, được thành lập ở nhiều nước khác nhau và có mối liên kết chặt chẽ. Chúng ảnh hưởng đến hoạt động của nhau và đặc biệt cùng có chung mục đích và nguồn vốn kinh doanh. Trong một công ty đa quốc gia, mức độ tự chủ của các thực thể rất khác nhau, tuỳ thuộc vào bản chất mối liên kết và lĩnh vực hoạt động giữa chúng [11, tr. 8].

Định nghĩa công ty đa quốc gia của Liên Hiệp Quốc năm 1978: “Công ty đa quốc gia là những công ty nắm quyền sở hữu hay kiểm soát hoạt động sản xuất và hệ thống bán hàng tại nhiều nước khác ngoài nước của mình. Đây không chỉ là công ty cổ phần, công ty tư nhân, mà chúng có thể là những công ty dưới hình thức hợp tác xã hay thực thể thuộc quyền sở hữu nhà nước” [6, tr.8].

Qua một số định nghĩa về công ty đa quốc gia nêu trên chúng ta thấy về mặt định lượng, công ty đa quốc gia có phạm vi hoạt động là từ hai nước trở lên; tỷ lệ lợi nhuận thu từ những hoạt động ở nước ngoài thường chiếm tỷ trọng lớn, từ 25% - 30% [7, tr.11]; mức độ thâm nhập thị trường nước ngoài khá vững chắc, đủ chắc chắn để đưa ra các quyết định kinh doanh. Về mặt định tính: công ty đa quốc gia có sự quản lý và hoạt động kinh doanh mang tính quốc tế, triết lý quản trị công ty có thể phân thành "dân tộc" (hướng nội), đa dạng (hướng theo thị trường nước ngoài), khu vực hay vùng (hướng đến khu vực rộng lớn hơn, có thể là toàn cầu). Các công ty đa quốc gia có thể xếp vào ba nhóm lớn theo cấu trúc các phương tiện sản xuất: i) Công ty quốc gia theo chiều ngang: sản xuất các sản phẩm cùng loại hoặc tương tự ở các quốc gia khác nhau; ii) Công ty đa quốc gia theo chiều dọc: có các cơ sở sản xuất ở một số nước nào đó, sản xuất ra sản phẩm là đầu vào cho sản xuất của nó ở một số nước khác; iii) Công ty đa quốc gia nhiều chiều: có các cơ sở sản xuất ở các nước khác nhau mà chúng hợp tác theo cả chiều ngang và chiều dọc.

Khái niệm về ngân hàng đa quốc gia: Trong phần trên chúng ta đã có một số khái niệm cơ bản về công ty đa quốc gia. Trước khi tìm hiểu ngân hàng đa quốc gia, chúng ta sẽ tìm hiểu về khái niệm ngân hàng. Nói chung, ngân hàng theo nghĩa truyền thống là một định chế tài chính cung cấp hai loại dịch vụ chính cho công


6


chúng là nhận tiền gửi và cho vay trực tiếp đến các doanh nghiệp, cá nhân và các định chế tài chính khác nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Ở Anh, ngân hàng được coi là một tổ chức bằng hoạt động của mình tiến hành thu nhận vốn dưới hình thức tiền gửi và cấp tín dụng cho các cá nhân và doanh nghiệp. Còn tại Việt Nam: "Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan" [30, (điều 20)] trong đó "Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi cung cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán...". Tuy có nhiều cách diễn giải khác nhau để làm rõ khái niệm về ngân hàng nhằm phân biệt ngân hàng với các định chế tài chính khác nhưng có điểm chung nhất trong các định nghĩa về ngân hàng đó là chỉ có ngân hàng mới thực hiện các khoản cho vay và bán ra những tài khoản thanh toán, ngoài những dịch vụ tài chính giống như các định chế tài chính khác cũng thực hiện. Như vậy, có thể hiểu ngân hàng là một định chế tài chính cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính, trong đó nghiệp vụ cơ bản và truyền thống là nhận tiền gửi, cấp tín dụng và thực hiện dịch vụ thanh toán. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, có loại hình ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình tổ chức ngân hàng khác.

Qua những khái niệm về công ty đa quốc gia và ngân hàng đơn thuần ở trên, chúng ta có thể hiểu Ngân hàng đa quốc gia là ngân hàng cung cấp các dịch vụ tài chính có phạm vi hoạt động ở hai hay nhiều nước, có trụ sở hoạt động chính tại một nước và có các chi nhánh hoạt động ở nhiều nước trên thế giới. Như các công ty đa quốc gia hoạt động trong các lĩnh vực khác trên thế giới, ngân hàng đa quốc gia là một thực thể kinh tế gồm nhiều công ty hoặc chi nhánh hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng như tài chính, bảo hiểm, ngân hàng, chứng khoán... hoặc các ngành khác có liên quan đến hoạt động đầu tư tài chính tại nhiều nước trên thế giới. Mỗi công ty con hoặc chi nhánh của ngân hàng đa quốc gia hoạt động tại các nước là những pháp nhân độc lập, trong đó có một ngân hàng đóng vai trò làm


7


nòng cốt là ngân hàng mẹ. Giữa các chi nhánh và ngân hàng mẹ có mối liên kết nhất định về tài chính, về quản lý, thông tin hoặc về vấn đề thương hiệu... để cùng nhau thực hiện một liên kết có quy mô lớn, nhằm đạt được các tôn chỉ, mục đích, sứ mệnh và hiệu quả hoạt động của cả công ty một cách tối đa.

Khái niệm về quản trị: Trước khi tìm hiểu về quản trị chi nhánh trong các ngân hàng đa quốc gia, chúng ta tìm hiểu về khái niệm quản trị chung trong công ty và quản trị chi nhánh.

Có nhiều khái niệm về quản trị nhưng có thể hiểu quản trị là một quá trình tổng thể về bố trí, sắp xếp nhân lực và tài nguyên một cách hiệu quả hướng đến các mục tiêu nhất định của một tổ chức. Liên quan đến vấn đề quản trị trong công ty, có hai khái niệm là quản trị công ty (QTCT) và quản trị kinh doanh (QTKD). Nhiều người cho rằng quản trị chính là QTKD hoặc cũng chính là QTCT. Thực ra hai khái niệm này không giống nhau. QTKD là điều hành quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp do Ban Giám đốc thực hiện. Còn QTCT, theo từ điển Bách khoa toàn thư Wikipedia [35], là một hệ thống các thiết chế, chính sách, luật lệ nhằm định hướng, vận hành và kiểm soát công ty. QTCT cũng bao hàm mối quan hệ giữa nhiều bên, không chỉ nội bộ công ty mà còn những bên có lợi ích liên quan bên ngoài công ty như các cơ quan quản lý Nhà nước, các đối tác kinh doanh và cả môi trường, cộng đồng và xã hội. Có thể hiểu QTCT là một quá trình giám sát và kiểm soát để đảm bảo hoạt động quản trị kinh doanh phù hợp với lợi ích của các cổ đông. QTCT ở nghĩa rộng còn hướng đến đảm bảo quyền lợi của những người liên quan không chỉ là cổ đông mà còn bao gồm các nhân viên, khách hàng, nhà cung cấp, môi trường và các cơ quan nhà nước. QTCT được đặt trên cơ sở của sự tách biệt giữa quản lý và sở hữu doanh nghiệp. Chủ sở hữu công ty là nhà đầu tư hoặc các cổ đông... nhưng để công ty tồn tại và phát triển phải có sự điều hành của Hội đồng Quản trị (HĐQT), Ban giám đốc và những đóng góp của người lao động mà những người này không phải lúc nào cũng có chung ý chí và quyền lợi. Rõ ràng cần phải có một cơ chế quản lý, điều hành và kiểm soát để nhà đầu tư, cổ đông có thể kiểm soát việc điều hành công ty nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Điểm mấu chốt

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 17/04/2023