Tóm Tắt Các Nghiên Cứu Về Phương Pháp Đo Lường Rủi Ro Danh Mục Cho Vay

dung trong nhiều các vấn đề về quản lý danh mục.

Một cách toàn diện hơn, Bluhm, Overbeck và Wegner (2010) đã đưa ra cái nhìn bao quát về bốn nhóm phương pháp đo lường rủi ro mang tính dự báo và các công cụ hiện đại để quản lý rủi ro với một danh mục cho vay. Các tác giả đã trình này các vấn đề một cách khá chi tiết về mặt lý thuyết, tuy vậy việc đánh giá các tác động của các phương pháp và công cụ này để quản trị rủi ro cho một ngân hàng hay một hệ thống các NHTM cụ thể lại chưa được thực hiện.

Đứng trên một cách tiếp cận khác về đo lường rủi ro danh mục cho vay trong tương lai, Capuano và các cộng sự (2009) dựa trên lý thuyết về xác suất vỡ nợ của từng khoản vay riêng lẻ, kết hợp với các mô hình rủi ro danh mục để dự báo xác suất một nhóm khách hàng vay bị rơi vào tình trạng vỡ nợ. Các lý thuyết nền tảng được sử dụng bao gồm: hệ phương trình Gaussian được giới thiệu bởi Vacisek (1987) (phương trình một nhân tố) và sau này được phát triển bởi Li (2000) (phương trình đa nhân tố) cùng với hàm hồi quy phân phối tổn thất được nghiên cứu bởi Andersen, Sidenius và Basu (2003). Luận án cũng kế thừa phương pháp lượng hoá này trong việc xác định tương quan vỡ nợ giữa các khoản vay trong danh mục để tính toán rủi ro của danh mục cho vay.

Trước thực tế rủi ro tín dụng ngày càng xảy ra với tần suất và quy mô lớn hơn trước, hiệp ước Basel phiên bản II và III đã đưa ra rất nhiều khuyến nghị về việc sử dụng các kĩ thuật đo lường hiện đại và công cụ quản trị rủi ro tiên tiến trong việc giảm thiểu tác động của rủi ro tới khả năng sinh lời của NHTM. Công trình nghiên cứu của Engelmann và Rauhmeier (2006) là một ví dụ điển hình về hướng dẫn cho các NHTM sử dụng ba chỉ tiêu quan trọng nhất theo khuyến nghị của Basel II để đánh giá rủi ro tín dụng, bao gồm Xác suất khách hàng không trả được nợ (PD), Tỷ lệ tổn thất trong trường hợp khách hàng vỡ nợ (LGD) và Giá trị tổn thất thực sự nếu khách hàng vỡ nợ (EAD). Ba yếu tố này là các thành tố đầu vào quan trọng trong ước lượng rủi ro của danh mục tín dụng và do vậy chúng quan trọng cho công tác giám sát và quản lý nội bộ của NHTM. Kể từ khi các quy định mới của Basel đưa ra được thực hiện vào tháng 1 năm 2007, có rất nhiều thắc mắc được đưa ra bởi các nhà quản trị ngân hàng, nhà giám sát và các

học giả trong việc thực hiện các quy định này. Nghiên cứu này của nhóm tác giả đã phần nào giúp làm sáng tỏ các khúc mắc trên.

Bảng 1.1: Tóm tắt các nghiên cứu về phương pháp đo lường rủi ro danh mục cho vay

STT

Tác giả (Năm thực hiện nghiên cứu)

Nội dung phương pháp

1

Bluhm, C., Overbeck, L. và Wegner, C. (2010)

Mô hình Bernoulli

Mô hình Poisson

Nhóm các mô hình hiện đại: mô hình Credit

Metrics, mô hình Credit Risk+, mô hình CreditPortfolio View

2

Saunders, A. và Allen, L. (2010)

Nhóm mô hình xem xét khoản vay như một hợp đồng quyền chọn: mô hình KMV và các mô hình khác của Moody’s

Nhóm mô hình dạng rút gọn: hệ thống phân tích khoản vay của KPMG và mô hình quản lý rủi ro tín dụng của Kamakura

Nhóm mô hình theo tiếp cận VAR: mô hình Credit Metrics và các mô hình khác

Nhóm mô hình theo tiếp cận mô phỏng vĩ mô: Mô hình CreditPortfolio View và các mô hình khác

Nhóm mô hình theo tiếp cận bảo hiểm: mô hình phá sản và mô hình Credit Risk+.

3

Capuano, C. và các cộng sự (2009)

Đo lường xác suất một nhóm các khách hàng vay bị vỡ nợ dựa trên:

Hàm hồi quy phân phối tổn thất bởi Andersen, L., Sidenius, J. và Basu, S. (2003)

Hệ phương trình Gaussian đa nhân tố bởi Li, D.X (2000)

Hệ phương trình Gaussian một nhân tố bởi Vacisek, O. (1987)

4

Engelmann, B. và

Hướng dẫn xác định ba đại lượng PD, EAD, LGD

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 252 trang tài liệu này.

Quản lý rủi ro danh mục cho vay tại các ngân hàng thương mại Việt Nam - 5

Rauhmeier, R. (2006)



Nguồn: Tác giả tổng hợp Trong luận án này, tác giả kế thừa các nghiên cứu hiện có ở trên về phương pháp luận của các mô hình dùng trong lượng hoá rủi ro tín dụng như: mô hình Credit Metrics, mô hình Credit Risk+, mô hình CreditPortfolio View và mô hình KMV để thực hiện mô phỏng việc đo lường rủi ro danh mục cho vay tại NHTM, đồng thời đưa ra các hạn chế cũng như điều kiện áp dụng của các mô hình để lựa chọn mô hình áp dụng phù hợp cho các NHTM Việt Nam.

1.4. Về các công cụ quản lý rủi ro danh mục cho vay

1.4.1. Nghiên cứu về nhóm các công cụ hiện đại

Trước hết, về nhóm công cụ hiện đại trong quản lý rủi ro danh mục cho vay, theo như nghiên cứu của hầu hết các nhà kinh tế thì các sản phẩm phái sinh tín dụng đang nổi lên như một biện pháp giảm thiểu, phòng tránh tác động của rủi ro danh mục tín dụng hiện đại và khá hiệu quả. Số lượng các nghiên cứu trong và ngoài nước về các sản phẩm phái sinh tín dụng này là khá đồ sộ, một vài các nghiên cứu tiêu biểu trong số đó như sau:

Huỳnh Thị Hương Thảo (2014) đã đưa ra góc nhìn khái quát về sự phát triển và thực trạng của thị trường phái sinh tín dụng trên thế giới và Việt Nam. Từ những đánh giá này, tác giả chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế trong phát triển thị trường này tại Việt Nam, điều này khiến cho các công cụ này chưa được các NHTM biết tới nhiều và chưa được sử dụng trên thực tế quản lý rủi ro tín dụng tại ngân hàng. Từ đó, tác giả đề xuất các kiến nghị và điều kiện cần thiết để thúc đẩy sự phát triển của thị trường phái sinh tín dụng tại Việt Nam.

Nguyễn Thị Châu Long và Trần Thụy Ái Phương (2014) nghiên cứu về đặc điểm của các công cụ phái sinh tín dụng cũng như thực trạng việc sử dụng các công cụ này trong quản lý rủi ro tín dụng tại ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam. Các phân tích thực trạng việc sử dụng công cụ phái sinh tín dụng được nghiên cứu tại công trình này cho thấy, việc áp dụng nhóm công cụ này chưa phổ biến tại các NHTM Việt Nam nói chung và tại NHTM được

nghiên cứu cũng chưa sử dụng các công cụ phái sinh để phòng ngừa rủi ro tín dụng được lý thuyết chỉ ra như: trái phiếu liên kết rủi ro tín dụng, hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng, hợp đồng quyền chọn tín dụng và hợp đồng hoán đổi tổng thu nhập. Tại công trình này, các tác giả cũng đưa ra một số đề xuất về phía Nhà nước và bản thân NHTM cần thực hiện để đẩy mạnh việc sử dụng các công cụ này trong giảm thiểu rủi ro tín dụng trên thực tiễn.

Nguyễn Minh Sáng và Nguyễn Thị Lan Hương (2013) giới thiệu về việc sử dụng các công cụ ngoại bảng, bao gồm các công cụ tài chính phái sinh, để gia tăng lợi nhuận cũng như giảm thiểu rủi ro trong hoạt động của NHTM. Đồng thời, vì giao dịch ngoại bảng cũng sẽ tạo ra rủi ro cho ngân hàng, do đó nhóm tác giả còn đưa ra khuyến nghị cho các ngân hàng về việc quản lý rủi ro cho các hoạt động ngoại bảng này, từ đó giúp các NHTM có cách nhìn nhận toàn diện hơn về các công cụ trên. Theo nhận định trong nghiên cứu của nhóm tác giả, tại Việt Nam hiện nay đã xuất hiện nhiều yếu tố tiềm năng để phát triển hoạt động ngoại bảng, riêng thị trường phái sinh tín dụng có thể sẽ sớm hình thành tại Việt Nam. Thêm vào đó, dự báo về sự phát triển trong tương lai của nhóm công cụ phái sinh tín dụng trong quản lý rủi ro danh mục tín dụng được cho là do nhu cầu sử dụng để phòng ngừa rủi ro là rất lớn xuất phát từ nhiều nguyên nhân tại danh mục tín dụng như: nợ xấu và nợ quá hạn vẫn ở mức cao, mức độ tập trung tín dụng cao tại các NHTM. Hơn nữa, với phương thức quản lý rủi ro này, các NHTM không cần điều chỉnh danh mục tín dụng hiện tại của mình, điều này là phù hợp trong xu hướng chuyên môn hoá trong các lĩnh vực cho vay của các NHTM Việt Nam hiện nay.

Bluhm, Overbeck và Wegner (2010) đã nghiên cứu về cách thức phân loại, cấu trúc, nguyên tắc trao đổi các dòng tiền, cũng như vai trò của sản phẩm nghĩa vụ nợ thế chấp (Collateral Debt Obligation - CDO) như một công cụ phái sinh hiện đại giúp NHTM có thể quản lý rủi ro trên phạm vi toàn bộ danh mục tín dụng của mình, trong đó có danh mục cho vay. Tuy vậy thực tế, việc sử dụng các sản phẩm phái sinh tín dụng tại các NHTM chưa được phổ biến do nguyên

nhân từ rủi ro đạo đức và lựa chọn đối nghịch. Trên nền tảng lý luận này, luận án sẽ đưa ra một số kiến nghị góp phần đưa phái sinh tín dụng trở thành một công cụ hiệu quả hơn trong quản lý rủi ro danh mục cho vay trên thị trường Việt Nam.

Lê Hồ An Châu (2006) tập trung phân tích về các hạn chế và từ đó đưa ra các điều kiện cần thiết để phát triển thị trường phái sinh tín dụng tại Việt Nam. Nghiên cứu này đưa ra các khuyến nghị và đề xuất khá chi tiết về các yếu tố thúc đẩy thị trường như: hành lang pháp lý, phát triển thị trường các công cụ nợ, các trang bị hiểu biết và công cụ quản lý cho các giao dịch phái sinh tín dụng tại NHTM, vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước…Tuy vậy trong nghiên cứu này, thực trạng về sử dụng các công cụ phái sinh tín dụng này tại NHTM chưa được chỉ ra.

Nghiên cứu được thực hiện bởi Minton, Stulz và Williamson (2005) đã cho thấy tại các NHTM Hoa Kì, công cụ này tỏ ra có tác dụng tốt khi giúp giảm thiểu rủi ro cho cả danh mục tín dụng bởi ưu điểm của công cụ này là không quan trọng loại khoản vay được bảo hiểm bởi công cụ đó là gì.

1.4.2. Nghiên cứu về nhóm các công cụ truyền thống

Thứ nhất, về đa dạng hoá danh mục cho vay. Trong nhóm các công cụ truyền thống để quản lý rủi ro danh mục cho vay, đa dạng hoá danh mục được sử dụng như công cụ khá phổ biến tại các NHTM và có nhiều nghiên cứu thực tiễn được đưa ra về tính hiệu quả của công cụ này trên các NHTM tại các thị trường khác nhau, ví dụ như:

Các nghiên cứu của Nguyễn Thị Quế Thu (2016), Bùi Diệu Anh (2010) đều chỉ ra lợi ích của việc đa dạng hoá danh mục cho vay là không chỉ giúp NHTM gia tăng lợi nhuận mà còn giúp giảm thiểu rủi ro tập trung danh mục. Bên cạnh đó, Nguyễn Minh Hiếu (2011) còn đưa ra cụ thể hoá các giải pháp đa dạng hoá danh mục cho vay đối với một NHTM được nghiên cứu theo từng khía cạnh về ngành kinh tế, loại hình doanh nghiệp, quy mô doanh nghiệp, kì hạn cho vay, hình thức bảo đảm….và cách kết hợp các tiểu danh mục theo từng tiêu thức

khác nhau thành một danh mục cho vay có hiệu quả. Như vậy, các nghiên cứu trong nước đã chỉ rõ lợi ích của đa dạng hoá danh mục cho vay như một công cụ được sử dụng phổ biến và có hiệu quả trong quản lý rủi ro tại các NHTM Việt Nam. Về mặt số lượng thì các nghiên cứu tập trung sâu theo hướng phân tích và đánh giá về tác dụng của đa dạng hoá danh mục tới hoạt động quản lý danh mục cho vay của NHTM là không nhiều, mà phần lớn nghiên cứu khái quát về việc đa dạng hoá danh mục sản phẩm dịch vụ của NHTM với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro tập trung danh mục. Vì vậy, luận án vẫn có hướng tiếp cận có tính kế thừa và phát triển hơn từ các nghiên cứu sẵn có về nội dung này.

Rossi, Schwaiger và Winkler (2009) nghiên cứu về mức độ ảnh hưởng của việc đa dạng hóa danh mục cho vay đến rủi ro, tính hiệu quả và khả năng vốn hóa của các ngân hàng c. Với mục đích tương tự, Kamp, Pfingsten và Prath (2005) tập trung nghiên cứu về mức độ đa dạng hóa danh mục các khoản vay tại các ngân hàng của Đức và ảnh hưởng của nó đến danh mục cho vay của ngân hàng. Tuy nhiên trong khuôn khổ một bài báo nên cả hai nghiên cứu trên không nghiên cứu toàn diện về quản lý rủi ro danh mục cho vay, trong khi vấn đề tập trung danh mục chỉ là một trong số các nội dung trong đó.

Thứ hai, về mua bán nợ. Mua bán nợ là công cụ để quản lý rủi ro trên phạm vi danh mục cho vay đã được các NHTM sử dụng từ nhiều năm trước, như được đề cập tới trong nghiên cứu của Smithson (2003). Tác giả này đưa ra khá chi tiết về các nội dung: khái niệm, các chủ thể tham gia, sự phát triển của thị trường mua bán nợ ngân hàng trên thế giới từ những năm 1970. Trong luận án này, mua bán nợ cũng được đưa ra như một công cụ đã và đang tỏ ra hiệu quả để quản lý rủi ro danh mục tín dụng tại các NHTM Việt Nam, trên cơ sở kế thừa lý thuyết trên của tác giả. Tuy nhiên điểm khác biệt là luận án chỉ nghiên cứu tới sự thay đổi và phát triển của thị trường mua bán nợ ngân hàng tại Việt Nam, nơi có nhiều đặc điểm khác biệt về sự phát triển cũng như các chủ thể tham gia so với các thị trường phát triển trên thế giới như nghiên cứu trên đã chỉ ra.

Với các nghiên cứu tại Việt Nam về công cụ mua bán nợ, các nghiên cứu trong nước hướng tới những mục tiêu nghiên cứu khá đa dạng xoay quanh nội dung

này như pháp luật về giao dịch mua bán nợ, thực trạng thị trường mua bán nợ tại Việt Nam và khuyến nghị chính sách để phát triển thị trường, hoạt động của công ty mua bán nợ của tổ chức tín dụng… Tuy vậy không có nhiều các nghiên cứu trong nước đưa ra được góc nhìn tổng quan về thực trạng sử dụng công cụ này trong quản lý rủi ro tín dụng tại các NHTM. Một số các công trình tiêu biểu có thể kể tới như:

Huỳnh Thị Hương Thảo (2019) sử dụng mô hình định lượng để đánh giá tác động của rủi ro tín dụng tới hiệu quả hoạt động của NHTM, từ đó nhấn mạnh việc quản lý rủi ro nhằm hạn chế tác động của rủi ro tín dụng là cần thiết để cải thiện hoạt động ngân hàng. Một trong số các đề xuất nhằm quản lý rủi ro tín dụng mà tác giả đưa ra là phát triển thị trường mua bán nợ, đây được xem là giải pháp quan trọng giúp NHTM xử lý các khoản nợ xấu triệt để.

Hoàng Thị Duyên (2016) đưa ra đánh giá tổng quan về thực trạng nợ xấu toàn hệ thống NHTM Việt Nam dựa theo kết quả nghiên cứu của Vietnam Report thực hiện cùng năm, từ đó đưa ra những kiến nghị để kiểm soát nợ xấu và hạn chế các tác động tiêu cực tới nền kinh tế. Theo đó việc xử lý nợ xấu của hệ thống sẽ có vai trò rất quan trọng của Công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng (VAMC) với tư cách là đối tác mua bán nợ xấu với tổ chức tín dụng tại Việt Nam. Theo tác giả, việc tạo điều kiện thuận lợi để phát triển thị trường mua bán nợ và nâng cao hiệu quả hoạt động của VAMC là hai nhiệm vụ trọng tâm cần thực hiện liên quan tới giải pháp mua bán nợ để xử lý nợ xấu tại các tổ chức tín dụng Việt Nam hiện nay.

Đào Duy Huân (2013) thông qua đánh giá thực trạng thị trường mua bán nợ tại Việt Nam, tác giả cho rằng tại Việt Nam, nợ xấu phát sinh cao nhưng thị trường mua bán nợ lại chưa phát triển, do đó việc xây dựng một thị trường mua bán nợ quốc gia được xem là giải pháp để giải cứu nút thắt nợ xấu trong hệ thống tài chính nói chung và hệ thống các tổ chức tín dụng nói riêng. Cơ sở cho nhận định này là bởi theo khảo sát ý kiến các chuyên gia tại nghiên cứu này, nợ xấu có thể được xử lý nhanh thông qua thị trường mua bán nợ, hơn nữa còn giúp tránh những hệ lụy tiêu cực mà nợ xấu để lại cho nền kinh tế. Từ đó, tác giả đưa ra ba điều kiện cần thiết thực hiện để hình thành thị trường mua bán nợ cho các

tổ chức tín dụng tại Việt Nam, đồng thời đề xuất tám nhóm giải pháp để hỗ trợ thị trường mua bán nợ này hoạt động hiệu quả.

Xem tất cả 252 trang.

Ngày đăng: 02/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí