trường liên ngân hàng hay hỗ trợ thanh khoản từ phía người cho vay cuối cùng. Những lập luận gần đây (Vodova, 2011) giả định "quá lớn để sụp đổ" các ngân hàng lớn sẽ tạo ra nhiều rủi ro hơn, đã đóng một vai trò quan trọng trong một số cuộc khủng hoảng ngân hàng trên thế giới đã xảy ra trong những thập kỷ gần đây. Họ giải thích rằng các
ngân hàng lớn có xu hướng tạo ra nhiều rủi ro hơn vì kỷ luật thị trường không được áp đặt và họ mong đợi chính phủ bảo vệ trong trường hợp ngân hàng thất bại. Do đó, các ngân hàng đẩy mạnh đòn bẩy, tăng cho vay với các khách hàng xấu, do đó có nhiều nợ xấu và rủi ro gia tăng.
Các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy mối quan hệ giữa RRTK và quy mô ngân hàng tương đối phức tạp. Hầu hết các nghiên cứu (Abdullah và Khan, 2012; Bonfim và Kim, 2014; Delécha và cộng sự, 2012; Dinger, 2009; Lucchetta, 2007; Giannotti và cộng sự, 2010) cho thấy quy mô ngân hàng tác động ngược chiều với RRTK. Vodova (2011) thấy rằng quy mô ngân hàng và RRTK có mối quan hệ phi tuyến. Lúc đầu quy mô gia tăng, các ngân hàng ít phải đối mặt với RRTK, nhưng quy mô gia tăng đến lúc nào đó sẽ làm gia tăng RRTK. Shen và cộng sự (2009) tìm thấy mối quan hệ phi tuyến tính giữa quy mô và RRTK ngân hàng. Các ngân hàng nhỏ sẽ thường nắm giữ cấu trúc thanh khoản cao trong khi ngân hàng càng lớn đến mức nào đó thì cấu trúc thanh khoản có xu hướng kém hơn và điều này làm gia tăng rủi ro thanh khoản. (Aspachs và cộng sự, 2005; Trương Quang Thông, 2013) cũng tìm thấy kết quả nghiên cứu tương tự. Trên cơ sở này, nhằm nghiên cứu tác động phi tuyến giữa Quy mô ngân hàng và RRTK, tác giả bổ sung biến Quy mô bình phương và đặt giả thuyết:
H1: Quy mô ngân hàng có mối quan hệ phi tuyến tính với RRTK
Chất lượng tài sản thanh khoản
Khủng hoảng thanh khoản ngân hàng Việt Nam từ năm 2008, đã cho thấy vai trò của việc quản trị thanh khoản. Thực tế cho thấy, những ngân hàng nào có chất lượng tài sản thanh khoản càng lớn sẽ ít gặp RRTK và hiếm khi phải rơi vào tình trạng đối phó với những khó khăn thâm hụt thanh khoản một cách thường xuyên. Về mặt quản trị, ngân hàng có thể giữ một bộ phận tài sản dưới dạng thanh khoản, bao gồm: dự trữ sơ cấp và dự trữ thanh khoản thứ cấp. Ngân hàng có thể bán hay cầm cố dự trữ thanh khoản và điều này có thể gia tăng RRTK. Các nghiên cứu trước sử dụng công thức đánh giá chất lượng tài sản thanh khoản qua 3 biến gồm (Tài sản thanh khoản/ Tổng tài sản (Bonfim và Kim, 2014; Bordeleau và Graham, 2010; Bunda và Desquilbet, 2008; Delécha và cộng sự, 2012; Lucchetta, 2007; Munteanu, 2012; Vodova, 2011),
Tỷ lệ dự trữ thanh khoản/ Tổng dư nơ ̣ tín duṇ g (Bunda và Desquilbet, 2008; Delécha và cộng sự, 2012; Lucchetta, 2007; Vodova, 2011), Tài sản thanh khoản/Tổng nguồn vốn huy động ngắn hạn (Bunda và Desquilbet, 2008; Cucinelli, 2013; Delécha và cộng
sự, 2012; Vodova, 2011) đều cho kết quả tương quan ngược chiều. Về mặt lý thuyết, ngân hàng sở hữu tài sản thanh khoản càng cao, cấu trúc thanh khoản càng cao, RRTK giảm. Tác giả kỳ vọng một mối quan hệ ngược chiều giữa chất lượng tài sản thanh khoản và RRTK.
H2: Chất lượng tài sản thanh khoản có mối quan hệ ngược chiều với RRTK
Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản
Vốn ngân hàng góp phần đảm bảo quyền lợi của chủ nợ và khả năng trả nợ của ngân hàng. Hay nói cách khác, vốn được coi như khoản dự phòng đối phó với các rủi ro khác trong hoạt động ngân hàng. Hiện có nhiều phương pháp tính chỉ tiêu vốn trong các mô hình định lượng. Các nghiên cứu trước đây (Berger và Bouwman, 2013; Bonfim và Kim, 2014, Cucinelli, 2013, Delécha và cộng sự, 2012; Ferrouhi và Lahadiri, 2014; Williams, 2014) chủ yếu sử dụng tỷ số vốn chủ sở hữu/tổng tài sản:
Mặc dù chỉ số vốn CAR điều chỉnh rủi ro được cho rằng phản ánh chính xác khi tính yêu cầu vốn tối thiểu nhưng dữ liệu có thể không đầy đủ cho tất cả các ngân hàng trong giai đoạn nghiên cứu. Vì thế, nghiên cứu sẽ áp dụng chỉ số vốn chủ sở hữu/tổng tài sản, cách tiếp cận này có ưu điểm đơn giản và thuận lợi về mặt dữ liệu để đo lường tác động của vốn đến rủi ro thanh khoản ngân hàng.
Vốn được xem là quyền chọn của ngân hàng khi rủi ro xảy ra và góp phần nâng cao khả năng đàn hồi của ngân hàng trước áp lực cạnh tranh. Berger và Bouwman
(2009) đã sử dụng mẫu lớn từ các NHTM của Mỹ trong giai đoan từ 1993 đến 2003,
kết quả cho thấy rằng mối quan hệ giữa vốn và RRTK là tương quan dương đối với các ngân hàng lớn và tương quan âm đối với các cho các ngân hàng nhỏ. Repullo (2004) tìm thấy bằng chứng vốn càng cao, càng gia tăng rủi ro khi chi phí vốn lớn hơn lãi suất huy động tiền gửi. Lý do là duy trì mức vốn cao trong điều kiện chi phí cơ hội của vốn
chủ sở hữu cao sẽ thúc đẩy ngân hàng đầu tư danh mục tài sản rủi ro hơn để có nhiều lợi nhuận bù đắp chí phí cơ hội đã mất. Toby (2006) nghiên cứ u về nguồn gốc gây ra
rủi ro thanh khoản của các ngân hàng Mỹ dưa trên lý thuyết khả năng thay đổi
"shiftability theory" giải thích rằng tính thanh khoản của một ngân hàng phụ thuộc vào khả năng chuyển đổi các tài sản ngắn hạn (công cụ ngắn hạn trên thị trường mở) trong một mức giá dự đoán được. Vốn ngân hàng tác động đến thanh khoản thông qua hai tác động riêng biệt: "cấu trúc mong manh tài chính" và "cấu trúc lấn át tiền gửi". Tác
đôṇ g của "Cấu trúc mong manh tài chính" đươc
đặc trưng bởi vốn thấp hơn, ngân hàng
có xu hướng gia tăng dự trữ thanh khoản, có xu hướng làm giảm rủi ro thanh khoản
(Diamond & Rajan, 2001) trong khi tỷ lệ vốn cao hơn có thể lấn át tiền gửi và do đó làm giảm việc tạo ra tính thanh khoản, RRTK gia tăng (Gorton và Winton, 2014).
Phần lớn các nghiên cứu (Delécha và cộng sự, 2012; Lucchetta, 2007; Bunda và Desquilbet, 2008; Cucinelli, 2013; Munteanu, 2012; Bonfim và Kim, 2014; Trương Quang Thông, 2013;) ủng hộ giả thuyết vốn tương quan dương với RRTK. Hay các ngân hàng vốn càng lớn có xu hướng ít nắm giữ tài sản thanh khoản, RRTK càng lớn và ngược lại. Vì thế, với cách lập luận trên, nghiên cứu tiếp cận lý thuyết khả năng thay đổi "shiftability theory’’ của Toby (2006) đưa ra giả thuyết.
H3: Vốn ngân hàng có mối quan hệ cùng chiều với RRTK
Rủi ro tín dụng
Dự phòng RRTD được coi như là một cách để kiểm soát tổn thất của các khoản cho vay, cho phép ngân hàng phát hiện và bảo hiểm rủi ro cho các khoản vay . Do đó, khi ngân hàng dự đoán nguy cơ bị mất vốn trên các khoản vay cao thì nên trích dự phòng cao hơn để làm giảm thu nhập (Shen và cộng sự, 2009). Delécha và cộng sự, (2012) nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến RRTK tại các ngân hàng tại khu vực Trung
Mỹ, Panama và cộng hòa Dominican cho thấy mối tương quan cùng chiều giữa rủi ro tín dụng và RRTK. Hoạt động cho vay gia tăng rủi ro tín dụng khi không thu hồi được những món nợ khó đòi dẫn đến ngân hàng phải phát mãi tài sản cầm cố là nguyên nhân sụt giảm khả năng thanh toán của ngân hàng, khiến tỷ lệ thanh khoản giảm sút và RRTK gia tăng. (Bonfim và Kim, 2014) cho thấy các ngân hàng chuyên biệt trong cho vay, tỷ lệ thanh khoản càng thấp, rủi ro thanh khoản cao hơn. Một số nghiên cứu gần đây có xem xét tác động của RRTD và RRTK và tác động của sự ổn định của ngân hàng từ nhiều góc độ khác nhau, tuy nhiên, các nghiên cứu đều xuất phát từ quan điểm lý thuyết đó là RRTD hay RRTK và cả sự tương tác giữa hai loại rủi ro này đều ảnh hưởng đến tính ổn định của ngân hàng (Acharya và cộng sự, 2010; Cucinelli, 2013, Trenca, Petria và Corovei, 2015;). (Diamond và Rajan,2005) giải thích rằng nếu ngân hàng cho vay quá nhiều dự án rủi ro thì ngân hàng không thể đáp ứng nhu cầu rút tiền của khách hàng. Nếu các tài sản dùng để cho vay dự án rủi ro này càng giảm giá trị thì càng có nhiều người đi rút tiền. Kết quả là RRTD càng cao thì dẫn đến RRTK càng cao do nhu cầu rút tiền của người gửi tiền.
Việc đo lường rủi ro tín dụng về mặt lý thuyết cũng như thực tiễn gặp nhiều khó khăn: khó khăn về thiếu thông tin các sản phẩm tín dụng vì các sản phẩm tín dụng đa dạng và khác nhau giữa các ngân hàng; Khó khăn từ việc rủi ro tín dụng xảy ra không thường xuyên nên việc theo dõi và thu thập dữ liệu tín dụng gần giống như sự kiện. Mặc dù vậy, lý thuyết cho thấy có nhiều công cụ đo lường rủi ro tín dụng theo cách tiếp cận vĩ mô. Thứ nhất, tỷ lệ trích lập dự phòng lượng hóa tình huống khách hàng
không thực hiện nghĩa vụ trong điều kiện bình thường và điều kiện cực đoan. Cách tiếp cận thứ hai là tỷ lệ nợ xấu, ưu điểm của việc tính tỷ lệ nợ xấu là có tính linh hoạt cao vì chỉ số này cho phép nghiên cứu so sánh tổng hợp các khu vực địa lý, các nhóm ngân hàng với nhau. Bên cạnh đó, rủi ro tín dụng cũng được đo lường thông qua hệ thống xếp hạng nội bộ của ngân hàng nhưng cách tiếp cận này gặp hạn chế về số liệu vi mô và đặc biệt không phù hợp với những nghiên cứu ở cấp độ vĩ mô hệ thống ngân hàng. Theo Basel, rủi ro tín dụng cũng được đo lường mô hình xác xuất vỡ nợ (Probabilities of Defaults – PDs) và tổn thất khi không thực hiện được các nghĩa vụ (Loss given Default – LGDs) nhằm kiểm tra sức chịu đựng của ngân hàng trước tổn thất tín dụng.
Về mặt thực nghiệm, Delécha và cộng sự, (2012), Cucinelli (2013), Bonfim và Kim (2014), Trenca, Petria và Corovei (2015) sử dụng chỉ số dự phòng rủi ro tín dụng/tổng dư nợ (Loan Loss Provision/Total Loans) để đo lường rủi ro rủi ro tín dụng. Bên cạnh đó, tỷ lệ nợ xấu (Bad Loans/Total Loans) được sử dụng trong các nghiên cứu Berger và DeYoung (1997) cũng được xem là một công cụ đo lường rủi ro tín dụng. Trong điều kiện hạn chế của bộ dữ liệu, tác giả đề xuất rủi ro tín dụng được đo lường theo phương pháp tỷ số chi phí dự phòng rủi ro tín dụng (Loan loss reseve/gross loans). Với cách lập luận trên, nghiên cứu đưa ra giả thuyết.
H4: Rủi ro tín dụng có mối quan hệ cùng chiều với RRTK
Thu nhập lãi thuần
Đây là chỉ số cho biết thu nhập lãi trên tổng tài sản bình quân (NIM). Và mục tiêu tập trung vào phân tích yếu tố các yếu tố từ hoạt động tín dụng ảnh hưởng đến RRTK nên ở mô hình này luận án chỉ sử dụng chỉ tiêu thu nhập lãi thuần từ hoạt động tín dụng. Ngân hàng có thu nhập từ lãi càng cao, RRTK càng cao. (Delécha và cộng sư, 2012; Munteanu, 2012; Bonfim và Kim,2014; Abdullah và Khan, 2012;) cũng cho kết quả tương đồng về mối quan hệ đồng biến giữa thu nhập từ lãi thuần với RRTK với cách tính như sau:
Tài sản bình quân (quý/năm) được tính là trung bình cộng của số đầu năm và cuối năm của tổng tài sản sinh lãi. Tài sản sinh lãi bao gồm tiền gửi tại ngân hàng trung ương, tiền gửi lại các TCTC khác, chứng khoán đầu tư, cho vay khách hàng.
Xu hướng hội nhập quốc tế được đặt trong môi trường cạnh tranh gay gắt dẫn đến cấu trúc thu nhập của ngân hàng đang dần dịch chuyển từ nguồn hoạt động sinh lãi sang nguồn hoạt động ngoài lãi (Lee và cộng sự, 2014). Nghiên cứu tại châu Á của Lee và cộng sự (2014) cho thấy ngân hàng càng gia tăng thu nhập lãi thì rủi ro ngân
hàng càng giảm. DeYoung và cộng sự (2001) cho rằng ngân hàng tại Mỹ hoạt động sinh lãi bền vững hơn vì cả ngân hàng và người đi vay thường duy trì quan hệ lâu dài, trong khi thu nhập ngoài lãi thường biến động theo ý muốn chủ quan của khách hàng. Lee và cộng sự (2014) cho thấy ngân hàng có hoạt động từ lãi tăng thì rủi ro tổng thể và rủi ro đặc thù có xu hướng gia tăng trong giai đoạn nền kinh tế bất ổn hoặc khủng hoảng. Trên cơ sở đó, luận án đưa ra giả thiết.
H5: Thu nhập lãi thuần có mối quan hệ cùng chiều với RRTK
Trong thực tiễn, ngoài các yếu tố ảnh hưởng trên, nguyên nhân dẫn đến RRTK ngân hàng càng phức tạp hơn khi môi trường kinh tế vĩ mô kém bền vững. Tăng trưởng quá nóng đặc biệt trong điều kiện nhân tố đóng góp tăng trưởng kém bền vững có thể gây rủi ro cho hệ thống tài chính. Ngược lại, suy giảm kinh tế thường làm suy yếu khả năng trả nợ của người đi vay dẫn đến tăng rủi ro cho hệ thống ngân hàng. Để đánh giá tổng quan các yếu tố ảnh hưởng đến RRTK ngân hàng, luận án bổ sung biến:
Khủng hoảng tài chính
(Lucchetta, 2007) cho rằng quản lý thanh khoản theo quan điểm nào cũng đều có ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng . Họ chỉ ra rằng , với nhu cầu thanh khoản ở mức trung bình cũng cần thiết phải thu hút thêm nguồn tài trợ với chi phí
cao hơn sẽ dân
đến giảm lơi
nhuân
và có thể dân
đến phá sản . Mặt khác, nếu ngân
hàng ở trạng thái kém thanh khoản quá mứ c có thể dẫn đến sự sụt giảm trong lai
biên (NIM) và có thể dân đêń hoạt động tài chính kém . Duy trì mức độ thích hơp
của thanh khoản trong hệ thống ngân hàng là vô cùng quan trọng , bởi vì nếu có sư khủng hoảng thanh khoản tại một ngân hàng duy nhất có thể có ảnh hưởng tiêu cực đối với toàn bộ hệ thống ngân hàng và có nguy cơ lan truyền toàn bô ̣hê ̣thống ngân hàng. Khi khủng hoảng thanh khoản , các ngân hàng cần phải vay từ thị trường với
mứ c lai suât́ cao và điêù naỳ gây ra một sự su y giảm maṇ h trong thu nhập của cać
ngân hàng. Bunda và Desquilbet (2008) sử dụng phương pháp phân tích hồi quy dựa trên dữ liệu bảng của 500 ngân hàng lớn nhất ở 43 quốc gia trong khu vực Bắc Mỹ và Châu Âu nhằm phân tích chi tiết các cách thứ c quả n tri ̣RRTK. Kết quả cho thấy các ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ RRTK cao hơn trong cuộc khủng
hoảng tài chính. Hầu hết các nghiên cứu trước (Bunda và Desquilbet, 2008; Delécha và cộng sự, 2012; Lucchetta, 2007; Munteanu, 2012; Shen và cộng sự, 2009; Skully và Perera, 2012; Vodova, 2011, Ferrouhi và Lahadiri, 2014) cho thấy khủng hoảng ngân hàng và RRTK tương quan cùng chiều. Với cách lập luận trên, nghiên cứu đưa ra giả thuyết.
H6: khủng hoảng tài chính có mối quan hệ cùng chiều với RRTK
Tốc độ tăng GDP thực, Biến động của lạm phát
Khả năng thanh khoản của ngân hàng luôn nhạy cảm với biến động kinh tế. Nghiên cứu thực nghiệm của Williams (2014) tìm thấy tăng trưởng GDP càng cao làm gia tăng rủi ro cho các ngân hàng châu Á. Trong khi đó, lạm phát thường đồng hành với mức lãi suất danh nghĩa cao và có thể dẫn đến những biến động tiêu cực đối với hệ thống ngân hàng. Bên cạnh đó, chỉ tiêu cung tiền cho biết khả năng thanh khoản của nền kinh tế. Nếu chỉ tiêu này có tốc độ tăng trưởng cao, có thể dẫn đến nguy cơ mất khả năng thanh toán, đồng tiền nội tệ mất giá. Yurdakul (2014b) đã cho thấy cung tiền làm gia tăng rủi ro ngân hàng. Nghiên cứu (Vodova, 2011) cho thấy mối tương quan nghịch giữa việc nắm giữ tài sản thanh khoản và tăng trưởng kinh tế, điều này hàm ý rằng trong điều kiện nền kinh tế tăng trưởng, các ngân hàng có xu hướng năm ít tài sản thanh khoản, RRTK cao hơn. Trong một nghiên cứu khác (Ferrouhi và Lahadiri, 2014, Munteanu, 2012; Cucinelli, 2013; Bunda và Desquilbet, 2008) cho thấy sự tương thuận giữa GDP và RRTK ngân hàng. Tác giả kỳ vọng mối tương quan cùng chiều với RRTK.
H7: Tốc độ tăng GDP thực có mối quan hệ cùng chiều với RRTK H8: Lạm phát có mối quan hệ cùng chiều với RRTK
H9: Cung tiền có mối quan hệ cùng chiều với RRTK
Bảng 3.1: Mối quan hệ giữa biến phụ thuộc và biến độc lập trong mô hình các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro thanh khoản ngân hàng
Tên biến | Định nghĩa/ký hiệu | Đo lường | Các nghiên cứu trước | Kết quả | Kỳ vọng | Nguồn dữ liệu | |
Biến phụ thuộc | |||||||
Hệ số thanh khoản (Liquidity risk) | FGAP khe hở tài trợ | (Dư nợ tín dụng - huy động vốn) / tổng tài sản | Ferrouhi và Lahadiri (2014), Shen và cộng sự (2009); Saunders và Cornett (2006), Arif và Nauman Anees (2012) | BankScope | |||
NLTA Dư nợ tín dụng/Tổng tài sản | Dư nợ tín dụng/Tổng tài sản | Ferrouhi và Lahadiri (2014); Lucchetta (2007); Vodova (2011), Roman và Sargu (2015); Munteanu (2012), | BankScope | ||||
NLST Dư nợ tín dụng/ Tổng nguồn vốn huy động ngắn hạn | Dư nợ tín dụng/(Tiền gửi khách hàng +nguồn tài trợ ngắn hạn) | Ferrouhi và Lahadiri (2014); Vodova (2011), Saunders và Cornett (2006), Shen và cộng sự (2009); Munteanu (2012) | BankScope | ||||
Biến giải thích | |||||||
Biến đặc trưng ngân hàng (Bank Characteristics) | Đo lường | Các nghiên cứu trước | Kết quả | Kỳ vọng | Nguồn dữ liệu | ||
Biến trễ RRTK | Trạng thái thanh khoản có tác động lẫn nhau qua thời gian. | lag (liquidityriskt-1 ) | Delécha và cộng sự (2012), Trenca, Petria và Corovei (2015) | (+) | BankScope | ||
Quy mô ngân hàng (SIZE) | Về mặt lý thuyết kinh tế quy mô, ngân hàng có tổng tài sản càng lớn thì sẽ ít gặp rủi ro thanh khoản hơn | Log (tổng tài sản) | Delécha và cộng sự (2012); Lucchetta (2007); Trương Quang Thông (2013); Vodova (2011), Trenca, Petria và Corovei (2015), Ferrouhi và Lahadiri (2014), Bonfim và Kim (2014); Horvàth và cộng sự, (2012) | (-) | BankScope | ||
SIZE ^2 | Theo giả định "quá lớn để sụp đổ, các ngân hàng lớn sẽ tạo ra nhiều rủi ro hơn. | Log (tổng tài sản)^2 | Shen và cộng sự (2009); Trương Quang Thông (2013); Lee và Kim (2013); Ferrouhi và Lahadiri (2014). | (+/-) | BankScope | ||
LIA | Tài sản thanh khoản/ Tổng tài sản. | (Tiền mặt, CDs, tiền gửi ngân hàng khác, các khoản đầu tư ngắn hạn trên thị trường liên ngân hàng)/ (Tổng tài sản) | Delécha và cộng sự (2012), Vodova (2011), Ferrouhi và Lahadiri (2014), Ahmed và cộng sự, (2011). | (-) | BankScope | ||
LADS | Tài sản thanh khoản/ Tổng nguồn vốn huy động ngắn hạn | (Tiền mặt, CDs, tiền gửi ngân hàng khác, các khoản đầu tư ngắn hạn trên thị trường liên ngân hàng)/ (Tiền gửi khách hàng +nguồn tài trợ ngắn hạn) | Vodova (2011), Cucinelli (2013), Delécha và cộng sự, (2012), Ferrouhi và Lahadiri (2014) | (-) | BankScope |
Có thể bạn quan tâm!
- Tác Động Của Rủi Ro Thanh Khoản Đến Hiệu Quả Hoạt Động Kinh Doanh Ngân Hàng
- Các Nghiên Cứu Về Liên Quan Đến Rrtk Và Hqhđkd Ngân Hàng
- Mô Hình Hồi Quy Cổ Điển Pooled Ols Với Dữ Liệu Bảng
- Mô Hình Nghiên Cứu Tác Động Rrtk Đến Hqhđkd Ngân Hàng
- Báo Cáo Tài Chính Hợp Nhất Các Chi Nhánh Và Các Công Ty Sau Hợp Nhất
- Tương Quan Giữa Các Biến Độc Lập Trong Mô Hình Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Rrtk Ngân Hàng, Nghiên Cứu Trường Hợp Các Quốc Gia Đông Nam Á.
Xem toàn bộ 210 trang tài liệu này.
BẢNG TỔNG HỢP CÁC BIẾN SỬ DỤNG TRONG MÔ HÌNH 1
LLR | Tỷ lệ tài sản thanh khoản/ Tổng dư nơ ̣ tín duṇ g | Tiền mặt, CDs, tiền gửi ngân hàng khác, các khoản đầu tư ngắn hạn trên thị trường liên ngân hàng)/ dư nợ tín dụng | Lucchetta (2007); Vodova (2011), Delécha và cộng sự (2012), Ferrouhi và Lahadiri (2014) | (-) | BankScope | ||
Cấu trúc vốn ETA | Tiếp cận hai tác động"cấu trúc mong manh tài chính" và "cấu trúc lấn át tiền gửi" cho rằng vốn và RRTK có tương quan dương | Vốn chủ sở hữu/ Tổng tài sản | Delécha và cộng sự (2012), Lucchetta (2007); Cucinelli (2013), Munteanu (2012), Ferrouhi và Lahadiri (2014) | (+) | BankScope | ||
RRTD | các ngân hàng chuyên cho vay, có cơ cấu vốn dễ bị tổn thương hơn, RRTK càng cao | Dự phòng rủi ro tín dụng/ Cho vay | Delécha và cộng sự (2012), Cucinelli (2013), Trenca, Petria và Corovei (2015), Arif và Nauman Anees (2012) | (+) | BankScope | ||
NIM | Ngân hàng có thu nhập lãi càng cao nhờ đâu tư vào các danh mục từ hoạt động tín dụng, RRTK càng gia tăng. | (Thu từ lãi – Chi từ lãi)/ Tài sản bình quân. | Delécha và cộng sự (2012), Munteanu (2012); Trenca, Petria và Corovei (2015), Roman và Sargu (2015) | (+) | BankScope | ||
Biến giả | |||||||
D_CRIS | Khủng hoảng ngân hàng | 1: giai đoạn khủng hoảng (2008 - 2010) 0: giai đoạn trước khủng hoảng (2005 -2007) | Ferrouhi và Lahadiri (2014); Delécha và cộng sự (2012); Vodova (2011); Lucchetta (2007) | (+) | |||
Biến vĩ mô | |||||||
GDP | Tăng trưởng kinh tế : Khả năng thanh khoản ngân hàng luôn nhạy cảm với biến động kinh tế. | Log ((GDPt-GDPt-1)/ GDPt-1) | Ferrouhi và Lahadiri (2014); Trương Quang Thông (2013); Vodova (2011) | (+) | ADB | ||
M2 | Cung tiền | Log(Cung tiền) | Yurdakul (2014a) | (+) | ADB | ||
INF | lạm phát càng cao, ngân hàng có xu hướng dự trữ tài sản thanh khoản càng tăng đảm bảo các trường hợp rủi ro xảy ra | Consumer Price Index | Ferrouhi và Lahadiri (2014); Bonfim và Kim (2014); Vodova ( 2011); Cucinelli (2013) | (+) | ADB |
Ghi chú: (-) tương quan âm, (+) tương quan dương, (-/+) phi tuyến Nguồn: Tự tổng hợp của tác giả