vực giáo dục đã nêu ró: “Năng lực là khả năng tiếp nhận và vận dụng tổng hợp có hiệu quả mọi tiềm năng của con người (tri thức, kỹ năng, thái độ, niềm tin để thực hiện một công việc hoặc đối phó với một tình huống, trạng thái nào đó trong cuộc sống và lao động nghề nghiệp” [22].
Từ các cách tiếp cận trên có thể hiểu: Năng lực là khả năng thực hiện các hoạt động dựa trên sự huy động tổng hợp kiến thức, kỹ năng, các giá trị bản thân để giải quyết hiệu quả vấn đề hay có cách hành xử phù hợp trong bối cảnh thực, năng lực được đánh giá thông qua kết quả hoạt động.
* Năng lực dạy học
Dạy học là một bộ phận của quá trình sư phạm, với nội dung khoa học, được thực hiện theo một phương pháp sư phạm đặc biệt, do nhà trường tổ chức. Dạy học là quá trình hoạt động có mục đích, có tổ chức, phối hợp thống nhất giữa hoạt động của thầy giáo và học sinh nhằm trang bị hệ thống kiến thức khoa học và hình thành hệ thống kỹ năng hoạt động, nâng cao trình độ học vấn, phát triển trí tuệ và hoàn thiện nhân cách cho người học theo mục tiêu, yêu cầu đã xác định. Dạy học là con đường cơ bản để thực hiện mục đích giáo dục xã hội. Học tập là cơ hội quan trọng nhất giúp mỗi cá nhân phát triển và thành đạt. Theo tác giả Nguyễn Văn Hộ và Hà Thị Đức NLDH của giáo viên là tổ hợp kiến thức, kỹ năng sư phạm, thái độ của giáo viên nhằm giúp giáo viên thực hiện có hiệu quả hoạt động dạy học.
Theo tác giả Nguyễn Đức Chính: NLDH là tổ hợp các phẩm chất của giáo viên bao gồm tri thức chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp của giáo viên trong quá trình dạy học được thể hiện thành công dưới dạng các hoạt động trong quá trình dạy học như quá trình chuẩn bị dạy học, lên lớp, kết quả dạy học…[14].
NLDH là một phẩm chất tạo thành trong cấu trúc nhân cách người giáo viên, nó bắt nguồn từ tố chất bẩm sinh như giọng nói, trí nhớ tốt, khả năng diễn đạt, tính mẫn cảm, tư duy sâu sắc, linh hoạt,… và được hình thành phát triển trong hoạt động sư phạm cụ thể của từng người. Người giáo viên có NLDH thì đương nhiên sẽ có tay nghề sư phạm nếu được bố trí trong môi trường hoạt động sư phạm. Cấu trúc tâm lý hoạt động của người giáo viên thì NLDH có 5 thành phần chức năng sau:
Thành phần nhận thức bao gồm những hành động có liên quan đến việc tích lũy các tri thức mới về mục đích dạy học và phương tiện đạt được nó; về tình trạng
của khách thể và chủ thể của các tác động trong quá trình dạy học. Thành phần này cũng bao gồm cả các kỹ năng tìm tòi tri thức từ các nguồn khác nhau.
Thành phần thiết kế bao gồm những hành động có liên quan tới việc quy hoạch tối ưu các nhiệm vụ được giao (những nhiệm vụ trước mắt và lâu dài) và cách giải quyết chúng trong hoạt động tương lai của người giáo viên hướng vào việc đạt được các mục đích muốn tìm.
Thành phần kết cấu bao gồm các hành động có liên quan tới việc lựa chọn sắp xếp nội dung thông tin trong dạy học.
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý phát triển năng lực dạy học cho giáo viên các trường trung học cơ sở huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh đáp ứng yêu cầu CTGD phổ thông mới - 1
- Quản lý phát triển năng lực dạy học cho giáo viên các trường trung học cơ sở huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh đáp ứng yêu cầu CTGD phổ thông mới - 2
- Các Phương Pháp Nghiên Cứu Thực Tiễn
- Mục Tiêu Bồi Dưỡng Năng Lực Dạy Học Cho Giáo Viên Trung Học Cơ Sở Đáp Ứng Yêu Cầu Chương Trình Giáo Dục Phổ Thông 2018
- Chỉ Đạo Triển Khai Hoạt Động Bồi Dưỡng Năng Lực Dạy Học Cho Giáo Viên Trung Học Cơ Sở Đáp Ứng Yêu Cầu Chương Trình Giáo Dục Phổ Thông 2018
- Khái Quát Chung Về Tình Hình Kinh Tế, Xã Hội Và Các Trường Trung Học Cơ Sở Ở Huyện Yên Phong, Tỉnh Bắc Ninh
Xem toàn bộ 138 trang tài liệu này.
Thành phần giao tiếp là những hành động có liên quan tới việc hình thành mối quan hệ hợp lý có tính chất giáo dục giữa người dạy và người học.
Thành phần tổ chức gồm những hành động thực tiễn giáo dục.
Các thành phần chức năng nói trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và chung cho tất cả những người tham gia vào hệ thống giáo dục. Trong đó, thành phần nhận thức là cái trục độc đáo trong năm thành phần cấu trúc tâm lý của hoạt động sư phạm.
Từ cách tiếp cận trên có thể coi NLDH của người giáo viên là khả năng thực hiện hoạt động dạy học dựa trên sự huy động tổng hợp kiến thức, kĩ năng chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm, các phẩm chất cá nhân để triển khai các khâu của quá trình dạy học nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu, nhiệm vụ dạy học đề ra trong bối cảnh thực.
1.2.3. Bồi dưỡng, bồi dưỡng năng lực dạy học cho giáo viên
* Bồi dưỡng
Có nhiều quan niệm về bồi dưỡng Theo Từ điển Tiếng Việt thì: “Bồi dưỡng là làm cho tăng thêm năng lực hoặc phẩm chất” [54]. Theo tác giả Nguyễn Minh Đường quan niệm: Bồi dưỡng là quá trình cập nhật và bổ sung kiến thức và kỹ năng còn thiếu hoặc đã lạc hậu [38]. Quá trình bồi dưỡng thường kết thúc bằng việc được cấp chứng chỉ.
Như vậy, “Bồi dưỡng” chính là quá trình bổ sung tri thức, kỹ năng và phẩm chất cho đối tượng bồi dưỡng. Thực chất đây là quá trình cập nhật bổ sung thêm tri thức, kỹ năng để nâng cao chất lượng và hiệu quả công việc đang làm (không nhằm
mục đích đổi nghề). Trong GD&ĐT, theo nghĩa rộng, bồi dưỡng được hiểu là một dạng đào tạo đặc biệt, về bản chất thì bồi dưỡng là một con đường của đào tạo và đối tượng của công tác bồi dưỡng hướng vào những người đang đương nhiệm trong các cơ quan giáo dục hoặc trong các nhà trường.
Với cách hiểu trên, “Đào tạo” và “Bồi dưỡng” có mối quan hệ gắn kết không thể tách rời của một quá trình tổng thể - đặc biệt đối với khoa học, giáo dục. Có thể nói, hai quá trình này luôn có sự liên kết, kết nối. Nếu đào tạo mà thiếu bồi dưỡng thì sản phẩm sẽ không thích ứng được sự thay đổi (phát triển) và bồi dưỡng không trên cơ sở đào tạo thì sản phẩm sẽ không tồn tại bền vững (tụt hậu). Như vậy, có thể coi, bồi dưỡng là giai đoạn hai của đào tạo (đào tạo mở rộng): Giai đoạn 1: Hình thành phẩm chất và các kĩ năng chuyên môn, nghiệp vụ cơ bản; Giai đoạn 2: Làm cho phẩm chất và các kĩ năng phát triển đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.
Như vậy có thể hiểu: Bồi dưỡng là cập nhật kiến thức và kỹ năng còn thiếu hoặc đã lạc hậu để đáp ứng yêu cầu của công việc.
* Bồi dưỡng năng lực dạy học cho giáo viên
Bồi dưỡng NLDH thực chất là quá trình cập nhật bổ sung kiến thức, kỹ năng để nâng cao trình độ trong lĩnh vực hoạt động chuyên môn của người giáo viên thông qua được tập huấn hoặc tự học (bồi dưỡng và tự bồi dưỡng). Bồi dưỡng NLDH là nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ để người giáo viên có cơ hội củng cố mở mang hoặc nâng cao hệ thống tri thức kỹ năng, kỹ xảo chuyên môn nghiệp vụ có sẵn nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động dạy học. Từ cách tiếp cận trên có thể hiểu Bồi dưỡng NLDH cho giáo viên là quá trình tác động của chủ thể tới giáo viên giúp họ nâng cao nhận thức, bổ sung kiến thức, kỹ năng, chuyên môn nghiệp vụ, hình thành tư tưởng, tình cảm, phẩm chất nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu của hoạt động dạy học và sự nghiệp GD&ĐT.
Mục tiêu của hoạt động bồi dưỡng NLDH cho giáo viên là bổ sung kiến thức, rèn luyện kỹ năng và tăng cường thái độ của giáo viên trong lĩnh vực dạy học và giáo dục, nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp GD&ĐT. Mục tiêu bồi dưỡng NLDH cho giáo viên phụ thuộc rất nhiều vào yêu cầu đổi mới giáo dục. Dù vậy, mục tiêu lớn nhất của hoạt động bồi dưỡng NLDH cho giáo viên phải là hình thành nhu cầu
tự học, tự bồi dưỡng ở giáo viên, vì chính nhu cầu này là động lực bền vững cho sự phát triển nghề nghiệp của người giáo viên.
Nội dung bồi dưỡng NLDH cho giáo viên gồm: Bồi dưỡng năng lực phát triển chuyên môn nghiệp vụ; bồi dưỡng năng lực năng lực xây dựng môi trường giáo dục; bồi dưỡng năng lực phát triển mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình và xã hội cho giáo viên; bồi dưỡng năng lực sử dụng ngoại ngữ, ứng dụng công nghệ thông tin, khai thác và sử dụng thiết bị công nghệ trong dạy học, giáo dục cho giáo viên.
Hình thức bồi dưỡng cho giáo viên gồm:
Bồi dưỡng tập trung. Bồi dưỡng tập trung là hình thức bồi dưỡng trong đó giáo viên tham gia bắt buộc phải học tập trung tại địa điểm học trong một khoảng thời gian nhất định. Bồi dưỡng tập trung thường được tổ chức theo đợt. Bồi dưỡng tập trung cho giáo viên có thể diễn ra ở cấp trung ương, cấp sở, hay cấp vùng, miền tùy theo nội dung bồi dưỡng. Ưu điểm của hình thức bồi dưỡng tập trung là tạo ra cho giáo viên thời gian học tập tập trung, không vướng bận công việc, xây dựng không khí học tập tích cực, và có thể huy động sự tham gia của các chuyên gia giáo dục vào đào tạo chuyên sâu cho giáo viên. Nhược điểm của hình thức bồi dưỡng tập trung là số lượng giáo viên tham gia thường có giới hạn, chủ yếu là giáo viên cốt cán.
Bồi dưỡng tại chỗ. Bồi dưỡng tại chỗ được thực hiện tại một trường hoặc một cụm trường. Bồi dưỡng tại chỗ thường được thực hiện bằng dự giờ, rút kinh nghiệm theo một chủ đề, nội dung bồi dưỡng nhất định. Việc dự giờ, quan sát các tình huống sư phạm nảy sinh trong thực tế giờ học cho phép giáo viên (bao gồm cả giáo viên được dự giờ và đồng nghiệp) phát hiện và bàn luận để đưa ra các phương án xử lý cho các tình huống nảy sinh. Ưu điểm của bồi dưỡng tại chỗ là ít tốn kém, có thể thực hiện thường xuyên và thường mang lại hiệu quả cao với những nội dung bồi dưỡng.
Bồi dưỡng bằng tự học. Bồi dưỡng bằng tự học là hình thức bồi dưỡng ít tốn kém nhất nhưng có thể mang lại hiệu quả cao nếu được định hướng phù hợp. Với hình thức này, giáo viên chủ động tìm tòi, nâng cao trình độ về một nội dung bồi dưỡng được quy định trước hoặc bất kỳ nội dung nào mà giáo viên cảm thấy hứng thú hoặc cần thiết do đòi hỏi của nghề nghiệp. Với sự phát triển của Internet, việc tự học được thực hiện dễ dàng hơn; giáo viên không còn lệ thuộc vào tính sẵn có
của tài liệu bồi dưỡng. Tuy nhiên, điểm mấu chốt của hình thức này là phải tạo động lực tự học cho giáo viên thì mới đảm bảo hiệu quả của việc bồi dưỡng.
Bồi dưỡng từ xa. Bồi dưỡng từ xa là hình thức thay thế cho bồi dưỡng tập trung, trong đó giáo viên không trực tiếp phải có mặt ở một địa điểm học cố định mà có thể học qua Internet, vào một thời gian cố định hoặc bất kỳ thời gian nào, tùy theo yêu cầu của nhà tổ chức khóa học. Ưu điểm của bồi dưỡng từ xa là xóa bỏ giới hạn về không gian và thời gian. Người học có thể được học từ các chuyên gia và vẫn tham gia các hoạt động thảo luận, đặt câu hỏi qua diễn đàn mà không cần phải mất thời gian di chuyển giữa địa điểm học và nơi ở. Tuy vậy, bồi dưỡng từ xa đòi hỏi nền tảng công nghệ và cơ sở vật chất nhất định, vì vậy chi phí đầu tư ban đầu cho hình thức này là khá lớn.
1.2.4. Giáo viên trung học cơ sở
* Giáo viên
Theo Luật giáo dục 2019 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam điều 66 đã xác định: “Nhà giáo giảng dạy ở cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, cơ sở giáo dục khác, giảng dạy trình độ sơ cấp, trung cấp gọi là giáo viên”. Như vậy, giáo viên là tên gọi chỉ nhà giáo thực hiện hoạt động dạy học và giáo dục tại các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp và dạy nghề.
* Giáo viên trung học cơ sở
Từ định nghĩa về giáo viên nêu trên, ta có thể hiểu giáo viên THCS là giáo viên tham gia hoạt động dạy học trong trường THCS, trường phổ thông nhiều cấp, trong đó có cấp THCS. Theo đó, giáo viên thực hiện lao động nghề nghiệp của mình tại các trường THCS được gọi là giáo viên THCS. Trong Điều 67 của Luật này cũng quy định rõ những tiêu chuẩn đối với người giáo viên, đó là:
1. Có phẩm chất, tư tưởng, đạo đức tốt;
2. Đáp ứng chuẩn nghề nghiệp theo vị trí việc làm;
3. Có kỹ năng cập nhật, nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ;
4. Bảo đảm sức khỏe theo yêu cầu nghề nghiệp.
Cũng theo Luật Giáo dục 2019, chuẩn trình độ giáo viên THCS là: Có bằng cử nhân thuộc ngành đào tạo giáo viên trở lên đối với giáo viên tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông (Điều 72, mục b). Định hướng theo các tiêu chuẩn nêu trên, Bộ GD&ĐT đã ban hành những quy định cụ thể về trình độ được đào tạo chuẩn
của giáo viên THCS.
Theo Thông tư số 16/2017/TT-BGDĐT của Bộ GD&ĐT năm 2017 về Khung vị trí việc làm trong trường THCS có đưa ra khái niệm “vị trí việc làm giáo viên THCS” - đó là “những người gắn với công việc hoạt động nghề nghiệp” trong trường THCS. Ngoài ra có thể có một vị trí việc làm là Tổng đội phụ trách thiếu niên có thể là giáo viên biệt phái sang một thời gian. Tuy nhiên những khái niệm này mang nặng tính tổ chức, là những quy định về định mức biên chế, không phải định nghĩa về giáo viên mà chỉ là khái niệm “vị trí việc làm của giáo viên THCS”.
1.2.5. Quản lý bồi dưỡng năng lực dạy học cho giáo viên trung học cơ sở
Từ những vấn đề trình bày trên, có thể đưa ra khái niệm: quản lý bồi dưỡng NLDH cho đội ngũ giáo viên THCS là quá trình hệ thống những tác động có tổ chức, có hướng đích của Hiệu trưởng trường THCS đến hoạt động bồi dưỡng NLDH cho đội ngũ giáo viên thông qua các chức năng quản lý nhằm thực hiện mục tiêu bồi dưỡng đã xác định.
Chủ thể quản lý bồi dưỡng NLDH cho đội ngũ giáo viên THCS có thể là Hiệu trưởng trường THCS. Khách thể quản lý là hoạt động bồi dưỡng NLDH cho giáo viên THCS.
Mục tiêu quản lý bồi dưỡng NLDH cho giáo viên THCS là nhằm nâng cao năng lực sư phạm, NLDH của giáo viên, đồng thời chuẩn hóa trình độ của đội ngũ giáo viên THCS, từng bước nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường.
1.3. Bồi dưỡng năng lực dạy học cho giáo viên trung học cơ sở đáp ứng yêu cầu chương trình giáo dục phổ thông 2018
1.3.1. Chương trình giáo dục phổ thông 2018 bậc trung học cơ sở và yêu cầu đối với năng lực dạy học cho giáo viên trung học cơ sở hiện nay
1.3.1.1. Chương trình giáo dục phổ thông mới
CTGD phổ thông được ban hành kèm theo Thông tư số 32/2018/TT-BDGĐT ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT có những đặc điểm sau:
CTGD phổ thông được xây dựng trên cơ sở quan điểm của Đảng, Nhà nước về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; kế thừa và phát triển những ưu điểm của các CTGD phổ thông đã có của Việt Nam, đồng thời tiếp thu thành tựu nghiên cứu về khoa học giáo dục và kinh nghiệm xây dựng chương trình theo mô hình phát triển năng lực của những nền giáo dục tiên tiến trên thế giới; gắn với nhu
cầu phát triển của đất nước, những tiến bộ của thời đại về khoa học - công nghệ và xã hội; phù hợp với đặc điểm con người, văn hoá Việt Nam, các giá trị truyền thống của dân tộc và những giá trị chung của nhân loại.
CTGD phổ thông bảo đảm phát triển phẩm chất và năng lực người học thông qua nội dung giáo dục với những kiến thức, kĩ năng cơ bản, thiết thực, hiện đại; hài hoà đức, trí, thể, mĩ; chú trọng thực hành, vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để giải quyết vấn đề trong học tập và đời sống; tích hợp cao ở các lớp học dưới, phân hoá dần ở các lớp học trên; thông qua các phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục phát huy tính chủ động và tiềm năng của mỗi học sinh, các phương pháp đánh giá phù hợp với mục tiêu giáo dục và phương pháp giáo dục để đạt được mục tiêu đó.
CTGD phổ thông được xây dựng theo hướng mở, bảo đảm định hướng thống nhất và những nội dung giáo dục cốt lõi, bắt buộc đối với học sinh toàn quốc, đồng thời trao quyền chủ động và trách nhiệm cho địa phương, nhà trường trong việc lựa chọn, bổ sung một số nội dung giáo dục và triển khai kế hoạch giáo dục phù hợp với đối tượng giáo dục và điều kiện của địa phương, của nhà trường, góp phần bảo đảm kết nối hoạt động của nhà trường với gia đình, chính quyền và xã hội. Chương trình bảo đảm tính ổn định và khả năng phát triển trong quá trình thực hiện cho phù hợp với tiến bộ khoa học - công nghệ và yêu cầu của thực tế.
Mục tiêu của CTGD phổ thông 2018 ở bậc THCS là phát triển các phẩm chất, năng lực đã được hình thành và phát triển ở cấp tiểu học, tự điều chỉnh bản thân theo các chuẩn mực chung của xã hội, biết vận dụng các phương pháp học tập tích cực để hoàn chỉnh tri thức và kĩ năng nền tảng, có những hiểu biết ban đầu về các ngành nghề và có ý thức hướng nghiệp để tiếp tục học lên trung học phổ thông, học nghề hoặc tham gia vào cuộc sống lao động.
Đối với cấp THCS thì CTGD phổ thông 2018 được cấu trúc như sau:
Nội dung giáo dục: Các môn học và hoạt động giáo dục bắt buộc: Ngữ văn; Toán; Ngoại ngữ 1; Giáo dục công dân; Lịch sử và Địa lí; Khoa học tự nhiên; Công nghệ; Tin học; Giáo dục thể chất; Nghệ thuật (Âm nhạc, Mĩ thuật); Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp; Nội dung giáo dục của địa phương. Các môn học tự chọn: Tiếng dân tộc thiểu số, Ngoại ngữ 2.
Thời lượng giáo dục: Mỗi ngày học 1 buổi, mỗi buổi không bố trí quá 5 tiết học; mỗi tiết học 45 phút. Khuyến khích các trường trung học cơ sở đủ điều kiện thực hiện dạy học 2 buổi/ngày theo hướng dẫn của Bộ GD&ĐT.
1.3.1.2. Những yêu cầu đối với năng lực dạy học của giáo viên trung học cơ đáp ứng yêu cầu chương trình giáo dục phổ thông 2018
* Một số yêu cầu về chuẩn nghề nghiệp của người giáo viên đáp ứng yêu cầu chương trình giáo dục phổ thông 2018
Theo thông tư 20/2018 TT- BGDĐT quy định Chuẩn nghề nghiệp cho giáo viên THCS có hiệu lực ngày 10 tháng 10 năm 2018 gồm có 5 tiêu chuẩn và 15 tiêu chí mà giáo viên cần đạt được trong quá trình công tác. Trong đó có tiêu chuẩn 2, phát triển chuyên môn, nghiệp vụ liên quan mật thiết phát triển nghề nghiệp dạy học cho giáo viên, đòi hỏi giáo viên nắm vững chuyên môn và thành thạo nghiệp vụ; thường xuyên cập nhật để nâng cao năng lực chuyên môn và nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục theo các tiêu chí và các mức độ quy định từ mức đạt, mức khá và cao nhất là mức tốt, cụ thể sau:
Yêu cầu về phát triển chuyên môn bản thân: Giáo viên phải học tập bồi dưỡng kiến thức chuyên môn theo quy định; có kế hoạch thường xuyên học tập. Chủ động nghiên cứu, cập nhật kịp thời yêu cầu đổi mới về kiến thức chuyên môn; biết vận dụng sáng tạo, phù họp các hình thức, phương pháp và lựa chọn nội dung học tập, bồi dưỡng, nâng cao năng lực chuyên môn của bản thân.
Yêu cầu về xây dụng kế hoạch dạy học và giáo dục theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực học sinh: giáo viên phải xây dụng được kế hoạch dạy học và giáo dục theo xu hướng mới. Chủ động điều chỉnh kế hoạch dạy học và giáo dục phù hợp với điều kiện thực tế của nhà trường và địa phương.
Yêu cầu về việc sử dụng phương pháp dạy học và giáo dục theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực học sinh: giáo viên áp dụng được các phương pháp dạy học tích cực và phương pháp giáo dục phù hợp phát triển phẩm chất, năng lực cho học sinh. Chủ động cập nhật, vận dụng linh hoạt và hiệu quả các phương pháp dạy học và giáo dục đáp ứng yêu cầu đổi mới, phù hợp với điều kiện thực tế.
Yêu cầu về năng lực kiểm tra, đánh giá theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực học sinh: giáo viên sử dụng được các phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả học tập và sự tiến bộ của học sinh theo quy định. Chủ động cập nhật, vận dụng