Các Phương Pháp Nghiên Cứu Thực Tiễn

7.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn

7.2.1. Phương pháp điều tra

Sử dụng phiếu khảo sát điều tra trên CBQL, GV các trường THCS nhằm thu thập những thông tin cần thiết về thực trạng bồi dưỡng NLDH cho giáo viên THCS và thực trạng quản lý bồi dưỡng năng lực dạy học cho giáo viên các trường THCS huyện Yên Phong tỉnh Bắc Ninh. Từ đó phân tích tổng hợp, đánh giá thực trạng bồi dưỡng NLDH cho giáo viên THCS và thực trạng quản lý bồi dưỡng NLDH cho giáo viên THCS huyện Yên Phong tỉnh Bắc Ninh.

7.2.2. Phương pháp phỏng vấn

Trực tiếp phỏng vấn cán bộ quản lý, GV các trường THCS huyện Yên Phong tỉnh Bắc Ninh về một số nội dung thực trạng bồi dưỡng và quản lý bồi dưỡng NLDH cho GV các trường THCS

7.2.3. Phương pháp quan sát

Quan sát giờ dạy, hoạt động bồi dưỡng và các điều kiện phục vụ bồi dưỡng giáo viên các trường THCS huyện Yên Phong, nhằm làm sáng tỏ thực trạng.

7.2.4. Phương pháp chuyên gia

Sử dụng phiếu lấy ý kiến các chuyên gia để khảo nghiệm tính cần thiết và khả thi của biện pháp đề xuất trong đề tài.

7.3. Phương pháp sử dụng toán thống kê

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 138 trang tài liệu này.

Dùng phương pháp này để xử lý, tổng hợp số liệu thu được, trên cơ sở đó rút ra kết luận khoa học, nhận xét mang tính khái quát.

8. Cấu trúc luận văn

Quản lý phát triển năng lực dạy học cho giáo viên các trường trung học cơ sở huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh đáp ứng yêu cầu CTGD phổ thông mới - 3

Luận văn phần Mở đầu, Kết luận và khuyến nghị, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục. Nội dung luận văn được cấu trúc theo 3 chương:

Chương 1. Cơ sở lý luận về quản lý bồi dưỡng NLDH cho giáo viên các trường THCS đáp ứng yêu cầu CTGD phổ thông 2018.

Chương 2. Thực trạng quản lý bồi dưỡng NLDH cho GV các trường THCS đáp ứng yêu cầu CTGD phổ thông 2018 huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh hiện nay.

Chương 3. Biện pháp quản lý bồi dưỡng NLDH cho GV các trường THCS huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh đáp ứng yêu cầu CTGD phổ thông 2018.

Chương 1

CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ QUẢN LÝ BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC DẠY HỌC CHO GIÁO VIÊN CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC PHỔ THÔNG 2018‌‌

1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề

Vấn đề bồi dưỡng NLDH, quản lý bồi dưỡng NLDH cho đội ngũ giáo viên là một trong những vấn đề luôn thu hút sự quan tâm, nghiên cứu của các nhà khoa học, nhà quản lý, nhà giáo trong nước và nước ngoài ở nhiều góc độ khác nhau.

1.1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài

* Các công trình nghiên cứu về bồi dưỡng năng lực dạy học cho đội ngũ giáo

viên

Ở nhiều nước trên thế giới, giáo viên là người được coi trọng và có vị thế

tương đối cao trong xã hội. Công tác đào tạo, bồi dưỡng năng lực chuyên môn cho đội ngũ giáo viên rất được quan tâm, thể hiện ở chương trình đào tạo toàn diện và các hoạt động thực tế được chú trọng. Không chỉ dừng lại ở việc đào tạo ban đầu là khi sinh viên tốt nghiệp các chương trình đào tạo giáo viên (là đáp ứng chuẩn giáo viên ban đầu). Việc đào tạo, bồi dưỡng giáo viên thường xuyên được các nước rất coi trọng, Ví dụ: như ở Mỹ, thuật ngữ “phát triển nghề nghiệp giáo viên” được sử dụng thay cho “bồi dưỡng giáo viên” vì kiến thức và kỹ năng học trong nhà trường rồi sẽ lạc hậu, giáo viên cần tiếp tục được bồi dưỡng trong quá trình dạy học ở các trường. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay khi các tiến bộ về khoa học công nghệ đang được áp dụng vào tất cả lĩnh vực đời sống xã hội thì người giáo viên cần được bồi dưỡng về chuyên môn, kỹ năng dạy học, cập nhật các kết quả nghiên cứu về tâm lý giáo dục nói chung cũng như các kết quả nghiên cứu về phương pháp, kỹ thuật dạy học mới.

Hannele Niemi và Ritva Jakku-Sihvonen, các tác giả đã mô tả chi tiết và có những phân tích thuyết phục về những thay đổi quan trọng trong cấu trúc, nội dung chương trình bồi dưỡng giáo viên để nâng cao chất lượng giáo dục ở Phần Lan. Một số tác giả khác như: A.Carin, Craig A.Mertler, Marzano lại đi sâu nghiên cứu và đã đề xuất các biện pháp hình thành NLDH cho giáo viên. Tác giả Marzano đã đưa ra một số định hướng như trong tiết học, giáo viên phải biết sơ đồ hóa kiến

thức, khắc sâu những kiến thức trọng tâm; thúc đẩy sự hợp tác của học sinh [50] từ đó cần thiết phải bồi dưỡng năng lực nghiệp vụ sư phạm cho giáo viên.

Nghiên cứu về công tác bồi dưỡng giáo viên trên thế giới tác giả Jacques Nimier với công trình “Giáo viên rèn luyện tâm lý” đã khẳng định việc đào tạo tâm lý không phải chỉ làm ở các trường sư phạm là đã đủ, mà cuộc sống nghề nghiệp sau này người giáo viên phải luôn luôn tự rèn luyện mình [29].

Các công trình “Đào tạo giáo viên về nghiệp vụ” của Marguerite Altet [35], “Tự đào tạo để dạy học” của Patrice Pelpel [40] đã lý giải vì sao công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên cần được đổi mới theo quan điểm lấy người học làm trung tâm. Thông qua đào tạo ban đầu và bồi dưỡng thường xuyên, người giáo viên phải có năng lực vừa tập trung đi sâu vào nội dung của bộ môn, vừa tập trung đi sâu vào việc học của học sinh. Các công trình nghiên cứu đã tìm ra công cụ lý luận khoa học góp phần đổi mới công tác đào tạo bồi dưỡng giáo viên.

Tác giả Raja Roy Singh nghiên cứu về phát triển đội ngũ giáo viên thông qua việc nghiên cứu xác định vai trò, vị trí của giáo viên trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp và nội dung phát triển đội ngũ giáo viên, theo tác giả: Giáo viên không chỉ là nhà chuyên môn mà còn là nhà giáo dục, nhà khoa học, người tư vấn, hướng dẫn, người học tập suốt đời, do đó phát triển đội ngũ giáo viên phải bao gồm phát triển chuyên môn, nghiệp vụ và năng lực nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng [49].

* Các công trình nghiên cứu về quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực dạy học cho đội ngũ giáo viên

Trung tâm Nghiên cứu và Đổi mới giáo dục, OECD, 1998, nghiên cứu về quản lý bồi dưỡng giáo viên và đã rút ra kết luận “Các chính sách đổi mới giáo dục sẽ không đem lại hiệu quả gì nếu bản thân người giáo viên không thay đổi”. Kết quả nghiên cứu tổng kết những kinh nghiệm thực tiễn điển hành của 8 quốc gia trong bồi dưỡng giáo viên, ví dụ như: phát triển những ý tưởng bồi dưỡng hoàn toàn mới của Đức; coi bồi dưỡng giáo viên là nhiệm vụ ưu tiên của Ireland; khắc phục những rào cản do quan niệm lỗi thời, cứng nhắc trong bồi dưỡng giáo viên ở Luc- xăm-bua; bồi dưỡng giáo viên hướng tới sự chuẩn mực, xuất sắc và có kiểm định ở Hoa Kỳ…[32].

Theo Denise Beutel và Rebecca Spooner-Lane, (Úc), Hiệu trưởng, các phó

hiệu trưởng, trưởng bộ môn, giáo viên có kinh nghiệm trong trường trung học sẽ là lực lượng nòng cốt tham gia vào quá trình kèm cặp, giúp đỡ những đồng nghiệp. Các nước Anh, Hoa Kỳ, Thái Lan cũng rất quan tâm đến sử dụng các giáo viên có kinh nghiệm, có trình độ nghề nghiệp cao để hướng dẫn, tư vấn cho các giáo viên mới. Qua việc trình bày trên có thể thấy các nghiên cứu về quản lý bồi dưỡng NLDH cho giáo viên THCS đã chú ý đến vai trò của Hiệu trưởng và phó Hiệu trưởng trong việc lập kế hoạch bồi dưỡng một cách khoa học và phù hợp với tình hình thực tế của trường; đã quan tâm đến lực lượng tham gia bồi dưỡng như các chuyên gia, giáo viên cốt cán các trường hay trưởng bộ môn, các giáo viên có kinh nghiệm ngay tại trường trung học và đã đề xuất các thời điểm bồi dưỡng phụ thuộc vào nội dung và nhu cầu bồi dưỡng của người học... Tuy vậy, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách cụ thể và có hệ thống về quản lý bồi dưỡng NLDH cho giáo viên THCS dựa vào nhu cầu và năng lực thực hiện của giáo viên.

Ngoài ra còn có các công trình của các tác giả bàn về vấn đề quản lý hoạt động phát triển năng lực chuyên môn cho đội ngũ giáo viên như: Felding và Schalock (1985); Glatthorn (1995); Borko và Putnam (1995); Guzman (1995); Mc.Ginn và Borden (1995); Kettle và Sellars (1996); Eleonora Vilegas-Reiers (1998); Kalelestad và Olweus (1998); Cobb (1999); Tattlo (1999); Darling-

Hammond (1999); Loucks-Horsely và Matsumoto (1999); Ganser (2000); Walling và Levis (2000); Cochran-Smith và Lytle (2001); Youngs (2001); Grosso de Leon (2001). Các công trình trên đã nghiên cứu kinh nghiệm thực tiễn và mô hình quản lý phát triển nghề nghiệp giáo viên nói chung; quản lý đào tạo, bồi dưỡng nâng cao NLDH nói riêng cho giáo viên [50].

Như vậy, các công trình của các nhà khoa học trên thế giới đã bàn luận khá sâu sắc vấn đề quản lý của đội ngũ giáo viên và quản lý bồi dưỡng năng lực trong đó có NLDH nói riêng cho đội ngũ giáo viên.

1.1.2. Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam


viên

* Các công trình nghiên cứu về bồi dưỡng năng lực dạy học cho đội ngũ giáo


Vấn đề phát triển đội ngũ giáo viên đã được Bác Hồ, Đảng và Nhà nước ta

hết sức quan tâm. Thực hiện tư tưởng của Hồ Chủ Tịch, suốt nửa thế kỷ qua, Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng chỉ đạo, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên, trong đó có việc nghiên cứu về đội ngũ giáo viên THCS. Theo đó, nhiều công trình nghiên cứu về đội ngũ giáo viên đã được triển khai dưới sự chỉ đạo của Bộ GD&ĐT.

Tác giả Bùi Minh Hiền dựa trên lý thuyết phát triển nguồn nhân lực, các tác giả đề xuất: Để đáp ứng yêu cầu luôn thay đổi của khoa học công nghệ và xã hội, nguồn nhân lực giáo viên cần được phát triển với đầy đủ 3 yếu tố sau đây: (i) đủ về số lượng; (ii) Đạt chuẩn về chất lượng; (iii) Đồng bộ về cơ cấu do đó vấn đề đào tạo lại, bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên là vấn đề cần thiết và cần phải có những giải pháp phù hợp [24].

Tác giả Vũ Xuân Hùng với “Năng lực dạy học của giáo viên dạy nghề theo tiếp cận năng lực thực hiện”, đã đưa ra các quan niệm về năng lực thực hiện, năng lực dạy học của người giáo viên đáp ứng CTGD phổ thông 2018 thực hiện. Trong đó, có năng lực thiết kế bài giảng, năng lực tiến hành dạy học, năng lực sử dụng phương pháp dạy học, năng lực thao tác mẫu, năng lực giao tiếp, năng lực sử lý tình huống sư phạm, năng lực kiểm tra đánh giá dạy học… Đây là cơ sở quan trọng để thiết kế xây dựng nội dung đào tạo giáo viên dạy nghề tại các Trường Sư phạm kỹ thuật [27].

Đỗ Thị Bích Loan “Kinh nghiệm quốc tế về bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục” xác định: Việc bồi dưỡng và đào tạo lại cho giáo viên và cán bộ quản lý là nhiệm vụ bắt buộc đối với người lao động sư phạm. Bộ GD&ĐT tổ chức các lớp tập huấn ở Trung ương để bồi dưỡng cho Hiệu trưởng, Hiệu phó, giáo viên tư vấn các bộ môn. Tùy theo thực tế của từng đơn vị, từng cá nhân mà cấp quản lý giáo dục để ra các phương thức bồi dưỡng khác nhau trong một phạm vi theo yêu cầu nhất định. Cụ thể là mỗi cơ sở giáo dục cử từ 3 đến 5 giáo viên được đào tạo tại một lần theo chuyên môn mới và tập trung nhiều vào đổi mới phương pháp dạy học. Tác giả đưa ra quan điểm người ta coi trọng phát triển nghề nghiệp hoặc năng lực

dạy học cho giáo viên là một quá trình phát triển cá nhân liên tục thông qua các chương trình, các hoạt động các dự án được thiết kế để tăng cường thực hành phát triển nghề nghiệp [32].

Trong báo cáo tổng kết của Đề tài độc lập cấp nhà nước “Nghiên cứu đề xuất các biện pháp cải cách công tác đào tạo bồi dưỡng giáo viên phổ thông” chủ nhiệm đề tài Nguyễn Thị Bình [5], đã nêu rõ thực trạng hoạt động bồi dưỡng giáo viên: Hình thức, nội dung, mục tiêu của hoạt động bồi dưỡng và chỉ ra những hạn chế của các vấn đề này. Từ phân tích thực trạng tác giả đã đưa ra các biện pháp đổi mới căn bản về phương thức đào tạo và bồi dưỡng giáo viên.

Đặng Thành Hưng (2013) trong công trình “Cơ sở khoa học của việc chuẩn hoá trong giáo dục phổ thông” nghiên cứu về bồi dưỡng giáo viên dựa trên tiếp cận năng lực và tiếp cận năng lực theo hướng chuẩn hóa trong giáo dục, dạy học, trên cơ sở đó đề ra những yêu cầu đối với giáo viên trong hoạt động dạy học, giáo dục và vấn đề bồi dưỡng, tự hoàn thiện của giáo viên [28].

* Các công trình nghiên cứu về quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực dạy học cho đội ngũ giáo viên

Tác giả Hà Thế Truyền trong công trình “Một số biện pháp nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên nhằm thực hiện phổ cập giáo dục THCS” đã đề cập đến vấn đề đổi mới phương thức và phương pháp đánh giá bồi dưỡng NLDH cho giáo viên theo hướng tiếp tục đổi mới phương thức học tập và cải tiến cách thức tổ chức bồi dưỡng cho giáo viên [51].

Tác giả Bùi Văn Quân, Nguyễn Ngọc Cầu (2006) đã nghiên cứu về quản lý bồi dưỡng giáo viên theo cách tiếp cận phát triển đội ngũ giáo viên. Các tác giả đã chỉ ra các cách tiếp cận để phát triển đội ngũ giáo viên bao gồm: Tiếp cận theo lý thuyết phát triển nguồn nhân lực; Tiếp cận quản lý nguồn nhân lực; Tiếp cận theo quan điểm triết học,… Từ vấn đề trên đặt ra các yêu cầu về đào tạo, bồi dưỡng giáo viên [46].

Tác giả Nguyễn Sĩ Thư với Luận án Tiến sĩ “Những biện pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên THCS các tỉnh Tây nguyên đáp ứng yêu cầu phổ cập giáo dục THCS” khi đề cập đến vấn đề nâng cao chất lượng hoạt động bồi dưỡng giáo viên cũng đã nêu lên sự cần thiết phải đổi mới quản lý bồi dưỡng NLDH và tác giả

đã kiến nghị với cấp Sở GD&ĐT là phải có kế hoạch điều tra, rà soát và sắp xếp cho đội ngũ giáo viên được chuẩn hóa và nâng chuẩn, tham dự các lớp đào tạo để nâng cao trình độ, cập nhật hóa thông tin và phương pháp dạy học mới; Tổ chức các lớp bồi dưỡng giáo viên cho tất cả những giáo viên đứng lớp trực tiếp là việc làm cấp bách [49].

Trong Luận án Tiến sĩ: “Quản lý hoạt động tự bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm của giáo viên trường THCS trong giai đoạn hiện nay” tác giả Lục Thị Nga đã nghiên cứu vào một nội dung rất quan trọng của quản lý bồi dưỡng giáo viên đó là quản lý hoạt động tự bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm. Tác giả đã phân tích, làm rõ về hoạt động tự bồi dưỡng của giáo viên THCS, xây dựng khung lý thuyết về hoạt động bồi dưỡng, tự bồi dưỡng, quản lý hoạt động tự bồi dưỡng. Tác giả phân tích tầm quan trọng của vấn đề tự học, tự bồi dưỡng, các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tự bồi dưỡng từ đó đưa ra những biện pháp quản lý hoạt động này [38].

Các công trình trên trên đã nghiên cứu nhiều vấn đề, nhiều mặt của hoạt động bồi dưỡng NLDH cho giáo viên nói chung và quản lý bồi dưỡng, bồi dưỡng NLDH cho giáo viên THCS nói riêng. Tuy nhiên, chưa có một nghiên cứu nào đề cập một cách trực tiếp, toàn diện về quản lý bồi dưỡng NLDH cho đội ngũ giáo viên THCS huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh đáp ứng yêu cầu CTGD phổ thông 2018.

1.2. Các khái niệm cơ bản

1.2.1. Quản lý giáo dục

* Quản lý

Thuật ngữ quản lý được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Dưới đây là một số định nghĩa về quản lý: Theo Fayol: “Quản lý là một hoạt động mà mọi tổ chức (gia đình, doanh nghiệp, chính phủ) đều có, nó gồm 5 yếu tố tạo thành là: kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, điều chỉnh và kiểm soát. Quản lý chính là thực hiện kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo điều chỉnh và kiểm soát ấy”. Còn theo Harold Koontz thì: “Quản lý là xây dựng và duy trì một môi trường tốt giúp con người hoàn thành một cách hiệu quả mục tiêu đã định” và “Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo phối hợp những nỗ lực hoạt động cá nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm (tổ chức). Mục tiêu của quản lý là hình thành một môi trường mà trong đó con người có thể đạt được các mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật

chất” [23]. Các tác giả O’Donnell C, Weihrich H. cho rằng: “Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm. Mục tiêu của mọi nhà quản lý là hình thành một môi trường trong đó con người có thể đạt được các mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất” [23].

Từ các quan niệm về quản lý như trên, có thể hiểu: Quản lý là quá trình thực hiện các công việc xây dựng kế hoạch hành động (bao gồm cả xác định mục tiêu cụ thể, chế định kế hoạch, quy định tiêu chuẩn đánh giá và thể chế hóa), sắp xếp tổ chức (bố trí tổ chức, phối hợp nhân sự, phân công công việc, điều phối nguồn lực tài chính và kỹ thuật…), chỉ đạo, điều hành, kiểm soát và đánh giá kết quả, sửa chữa sai sót (nếu có) để bảo đảm hoàn thành mục tiêu của tổ chức đã đề ra.

1.2.2. Năng lực, năng lực dạy học của giáo viên

* Năng lực

Khái niệm năng lực (competency) có nguồn gốc từ tiếng La tinh competentia.

Có nhiều quan niệm khác nhau về năng lực:

Năng lực được hiểu như sự thành thạo, khả năng thực hiện của một cá nhân đối với công việc. Bên cạnh sự khác nhau về nhu cầu, hứng thú, tính tình, khí chất... Con người còn khác nhau về năng lực, thể hiện được sự khác biệt rõ nét giữa cá nhân này và cá nhân khác, mỗi cá nhân có những năng lực nhất định và sự khác biệt về năng lực của mỗi cá nhân tạo nên một bức tranh nhân cách riêng. Năng lực bao gồm các kiến thức, kỹ năng cũng như quan điểm và thái độ mà một cá nhân có để hành động thành công trong các tình huống mới. Năng lực là “khả năng giải quyết” và mang nội dung khả năng và sẵn sàng để giải quyết tình huống.

Theo Từ điển Tiếng Việt (2002): “Năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó. Năng lực là phẩm chất tâm lí và sinh lí tạo cho con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao” [54].

Theo Nguyễn Quang Uẩn: “Năng lực là tổng hợp những thuộc tính độc đáo của mỗi cá nhân phù hợp với những yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định nhằm đảm bảo việc hoàn thành có kết quả tốt trong lĩnh vực hoạt động ấy”. Trần Khánh Đức, trong nghiên cứu nhu cầu và mô hình đào tạo theo năng lực trong lĩnh

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 31/05/2023