Bảng: 2.18: Khảo sát ý kiến của cán bộ quản lý và giáo viên của các trường về nội dung phát triển đội ngũ giáo viên
Nội dung hoạt động quản lý của nhà trường | Mức độ thực hiện | |||||
Rất hiệu quả | Có hiệu quả | Phân vân | Ít hiệu quả | Rất ít hiệu quả | ||
1 | Xây dựng quy hoạch phát triển đội ngũ | 55 (36,67%) | 59 (39,33%) | 20 (13,33%) | 12 (8,00%) | 4 (2,67%) |
2 | Quá trình tuyển dụng và sử dụng đội ngũ | 40 (26,67%) | 65 (43,33%) | 23 (15,33%) | 20 (13,33%) | 2 (1,34%) |
3 | Đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng | 45 (30,00%) | 35 (23,33%) | 51 (34,00%) | 15 (10,00%) | 4 (2,67%) |
4 | Kiểm tra, đánh giá | 70 (46,66%) | 55 (36,67%) | 10 (6,67%) | 10 (6,67%) | 5 (3,33%) |
5 | Chế độ, chính sách đối với giáo viên có học hàm, học vị, có đề tài nghiên cứu khoa học | 35 (23,33%) | 52 (34,67%) | 40 (26,67%) | 15 (10,00%) | 18 (12,00%) |
6 | Chính sách đãi ngộ trong đào tạo bồi dưỡng | 35 (23,33%) | 64 (42,67%) | 15 (10,00%) | 20 (13,33%) | 16 (10,67%) |
Có thể bạn quan tâm!
- Khái Quát Về Điều Kiện Kinh Tế - Xã Hội Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội
- Số Liệu Thống Kê Số Phòng Học, Phòng Chức Năng Năm Học 2009 - 2010
- Xếp Loại Phẩm Chất Chính Trị, Đạo Đức Lối Sống Đngv
- Những Nguyên Tắc Đề Xuất Biện Pháp Xây Dựng Đội Ngũ Giáo Viên Các Trường Trung Học Phổ Thông Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội
- Thường Xuyên Tổ Chức Đào Tạo, Bồi Dưỡng Nâng Cao Trình Độ Chuyên Môn Cho Đội Ngũ Giáo Viên
- Thực Hiện Chế Độ Chính Sách, Tạo Động Lực Đối Với Đội Ngũ Giáo Viên
Xem toàn bộ 118 trang tài liệu này.
2.4.1. Công tác quy hoạch phát triển đội ngũ
Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác tổ chức cán bộ đã chỉ rõ: “Công tác tổ chức cán bộ còn nhiều yếu kém. Đội ngũ cán bộ xét cả về số lượng, chất lượng cơ cấu còn nhiều mặt chưa đáp ứng yêu cầu cả trước mắt và lâu dài chưa ngang tầm với thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
Trong việc xây dựng công tác quy hoạch phát triển ĐNGV, các trường THPT Quận Hai Bà Trưng chỉ thực hiện việc lập kế hoạch tuyển chọn GV cho từng năm học mà chưa xây dựng được kế hoạch chiến lược và quy hoạch phát triển ĐNGV trong giai đoạn trung hạn 3 – 5 năm hay 5 – 10 năm. Hiệu trưởng nhà trường thường căn cứ vào chỉ tiêu tuyển sinh, số học sinh đào tạo trong năm, số lượng ĐNGV hiện có, các điều kiện về CSVC,... để lập kế hoạch bổ sung GV cho năm học mới. Việc lập kế hoạch đã vận dụng một cách khéo léo giữa hai mô hình quản lý phát triển ĐNGV, đó là:
- Mô hình phát triển ĐNGV từ trên xuống dưới, trong đó người hiệu trưởng chịu trách nhiệm chính trong việc xác định nhu cầu, thiết kế thực hiện và đánh giá hoạt động phát triển ĐNGV trên cơ sở kế hoạch của nhà trường; từ đó vạch ra các biện pháp về quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và tạo động lực để phát triển ĐNGV.
- Mô hình phát triển ĐNGV từ dưới lên trên, trong đó, cá nhân và tập thể các Khoa, Bộ môn chỉ ra những mặt mạnh, hạn chế và nhu cầu phát triển của từng cá nhân, Khoa, Bộ môn. Từ đó tự đề ra nhu cầu và tham gia tự giác vào quá trình phát triển ĐNGV dưới sự quản lý của lãnh đạo nhà trường.
2.4.2. Triển khai công tác tuyển chọn, sử dụng đội ngũ giáo viên
Công tác tuyển chọn giáo viên là công tác quan trọng nhằm phát triển về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, nâng cao chất lượng ĐNGV trong hệ thống các trường THPT.
Việc thực hiện tuyển chọn đội ngũ được thực hiện theo quy trình các bước
sau:
- Hàng năm, căn cứ vào kế hoạch đã được xây dựng, Hiệu trưởng nhà
trường tiến hành tuyển chọn giáo viên cho các bộ môn còn thiếu. Việc tuyển chọn chủ yếu là dành cho các giáo sinh mới ra trường về làm công tác giảng dạy hợp đồng thử việc tại trường. Số lượng giáo viên được tuyển chọn làm công tác giảng dạy hợp đồng thường bằng hoặc ít hơn số lượng giáo viên cần tuyển dụng,
hầu như không tuyển dôi dư do các nhà trường không có kinh phí chi trả. Bên cạnh đó một số bộ môn lại không có giáo sinh mới để tuyển chọn.
- Do các trường THPT là đơn vị trực thuộc Sở GD&ĐT nên công tác tuyển dụng viên chức nhà nước được tiến hành theo quy định của liên Sở GD& ĐT - Sở nội vụ. Việc tiến hành tuyển dụng không được diễn ra liên tục hàng năm mà diễn ra từng đợt theo quy định của UBND thành phố.
- Thẩm quyền tuyển dụng có sự khác nhau giữa hai đợt tuyển dụng:
+ Đợt 1: Sở GD&ĐT tổ chức tuyển dụng cho các trường, các trường làm công tác tiếp nhận giáo viên;
+ Đợt 2: Các trường mới được giao trực tiếp tuyển dụng GV trên cơ sở số lượng định biên của UBND thành phố cho từng đơn vị, Sở GD&ĐT làm công tác giám sát.
- Hình thức tuyển dụng được tiến hành đó là: Thi tuyển, xét tuyển hoặc phối hợp cả hai tuỳ theo từng trường, từng bộ môn.
Thực tế hiện nay công tác tuyển chọn đội ngũ giáo viên còn nhiều bất cập. Các trường THPT nơi trực tiếp sử dụng đội ngũ giáo viên nhưng lại không được quyền tuyển dụng mà chỉ tham gia ý kiến trong việc bổ nhiệm vào ngạch viên chức vì thế có những bất cập trong đội ngũ, có những giáo viên chưa thật sự đáp ứng được yêu cầu tuyển dụng, vẫn bố trí giảng dạy, có bộ môn giáo viên thừa ở trường này lại thiếu ở trường khác.
Nhiều bộ môn do còn thiếu giáo viên nên số giờ dạy của một số giáo viên còn trên 20 tiết/tuần, ngoài ra còn phải kiêm nghiệm công tác khác, do đó thiếu thời gian cho việc soạn giảng, chấm trả bài, tự học tập để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, điều đó cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng và hiệu quả công việc.
Trong năm học vừa qua một số trường THPT trên địa bàn Quận Hai Bà Trưng đã mạnh dạn bố trí những giáo viên có mới ra trường dạy lớp 12 ở những bộ môn khoa học cơ bản Toán, Văn, Hóa. Ban đầu, các giáo viên này rất rụt rè
và có phần lúng túng nhưng được sự động viên khích lệ của BGH, sự ủng hộ của các tổ trưởng chuyên môn, các đồng nghiệp số giáo viên này sau một năm trình độ tay nghề đã được khẳng định, tự tin trong các hoạt động giảng dạy.
2.4.3. Tổ chức công tác đào tạo và bồi dưỡng ĐNGV
- Việc đào tạo, bồi dưỡng đạt chuẩn, nâng chuẩn; bồi dưỡng thường xuyên, bồi dưỡng theo chu kỳ; bồi dưỡng đổi mới GDPT, bồi dưỡng thay sách được thực hiện theo kế hoạch của Sở GD&ĐT, các trường là đơn vị thực hiện.
- Nội dung bồi dưỡng, tự bồi dưỡng tại các nhà trường được tiến hành đó là:
+ Bồi dưỡng về quy chế hành chính chuyên môn;
+ Bồi dưỡng về nội dung, chương trình và SGK mới;
+ Bồi dưỡng về đổi mới phương pháp giảng dạy;
+ Bồi dưỡng đổi mới cách kiểm tra đánh giá học sinh;
+ Bồi dưỡng cách sử dụng đồ dùng, thiết bị dạy học ;
+ Bồi dưỡng nghiệp vụ về công tác chủ nhiệm;
+ Báo cáo chuyên đề và viết sáng kiến kinh nghiệm giảng dạy,…
- Hình thức đào tạo, bồi dưỡng: các lớp nâng cao trình độ học theo chương trình quy định của trường đại học, học tập trung hoặc vừa học, vừa làm; các lớp bồi dưỡng tổ chức theo bộ môn học tập trung tại Sở hoặc bồi dưỡng tại các đơn vị theo nội dung quy định.
+ Tổ chức học tập bồi dưỡng tại các trường thông qua các tổ nhóm chuyên môn: Sinh hoạt chuyên đề theo tổ nhóm; thao giảng trên lớp, hội giảng, dự giờ rút kinh nghiệm; hội thảo khoa học, viết sáng kiến kinh nghiệm,...
+ Tự bồi dưỡng: thông qua hoạt động dự giờ, tự nghiên cứu tài liệu,...
Bảng 2.19: Thống kê số lượng giáo viên tham gia các khoá bồi dưỡng từ năm 2008 – 2009 đến nay
Đơn vị: người
Bồi dưỡng | ||||
Chuyên môn nghiệp vụ | Tin học | Ngoại ngữ | Bồi dưỡng kiến thức QL | |
2008 – 2009 | 102 | 20 | 25 | 5 |
2009 - 2010 | 180 | 15 | 36 | 15 |
2010 - 2011 | 212 | 19 | 32 | 12 |
Tổng số | 494 | 54 | 93 | 32 |
(Nguồn: Sở GD&ĐT Hà Nội)
- Từ bảng thống kê cho thấy, các trường đã chú trọng cho các GV chưa đủ chuẩn bằng cấp đi đào tạo đạt chuẩn. Công tác bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ: đổi mới nội dung, chương trình và SGK mới được các nhà trường chú trọng.
- Tuy nhiên, công tác đào tạo bồi dưỡng cho ĐNGV còn bộc lộ nhiều tồn tại, hạn chế đó là:
+ Việc đào tạo nâng chuẩn; bồi dưỡng về tin học, ngoại ngữ chưa được chú trọng đúng mức. Số lượng GV đi học trên chuẩn hàng năm rất ít; số lượng GV được bồi dưỡng về tin học, ngoại ngữ hàng năm rất hạn chế.
+ Công tác xã hội hoá, định hướng cho giáo viên trẻ chưa được chú ý dẫn đến hiện tượng giáo viên hay mắc phải các sai sót không đáng có trong công tác.
+ Công tác bồi dưỡng về nghiệp vụ quản lý cho đội ngũ tổ trưởng chuyên môn, GV đầu đàn chưa được chú trọng nên năng lực quản lý của họ còn hạn chế.
+ Công tác tự bồi dưỡng, NCKH của giáo viên còn hình thức, chưa thiết thực, hiệu quả không cao.
2.4.4. Tổ chức kiểm tra, đánh giá ĐNGV
Để phát triển đội ngũ giáo viên trong trường thì việc kiểm tra, đánh giá chuyên môn nghiệp vụ cũng như đạo đức của giáo viên luôn được coi trọng và đặt lên hàng đầu. Hàng năm, cứ sau một học kỳ, các trường thường tiến hành kiểm tra, đánh giá chất lượng giảng dạy cũng như trình độ chuyên môn của giáo viên thông qua buổi dự giờ, sinh hoạt chuyên môn và sinh hoạt khoa học. Bên cạnh đó, các trường cũng xây dựng phiếu đánh giá của học sinh đối với giáo viên của các môn.
Qua công tác kiểm tra, đánh giá các trường THPT Quận Hai Bà Trưng trong 03 năm vừa qua, có thể rút ra một số nhận xét:
- Việc đánh giá, xếp loại GV của các trường THPT về cơ bản đảm bảo khách quan, công khai, dân chủ, phản ánh đúng năng lực và phẩm chất của GV. Làm rõ được ưu khuyết điểm, mặt mạnh, mặt yếu về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, năng lực và hiệu quả công tác, khả năng phát triển của giáo viên. Thông qua đó giúp Hiệu trưởng các trường bố trí, sử dụng, bổ nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng và thực hiện chế độ chính sách đối với GV một cách tương đối hợp lý và có hiệu quả.
- Tuy nhiên, công tác đánh giá, sàng lọc ĐNGV còn bộc lộ những tồn tại, hạn chế:
+ Chưa có thang thước chuẩn với các tiêu chuẩn, tiêu chí chung để đánh giá giáo viên. Chưa có nội dung, phương pháp đánh giá thống nhất cho các trường trong huyện. Vì vậy, tạo ra kết quả khác nhau trong đánh giá GV giữa các trường.
+ Việc đánh giá ở một số trường còn mang tính hình thức, nâng đỡ là chính nên chưa phản ánh đúng năng lực và phẩm chất của GV.
2.4.5. Thực hiện chế độ, chính sách đối với ĐNGV
Hoàn cảnh sống của cán bộ, giáo viên ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng hoạt động và sự phát triển của nhà trường. Vì vậy, người lãnh đạo phải luôn có sự quan tâm các chế độ chính sách đãi ngộ cho ĐNGV.
Trong những năm qua, nhà trường đã huy động mọi nguồn lực có thể để có những chính sách đối với cán bộ, giáo viên được tốt nhất. Các cán bộ, giáo viên trong trường được trang bị những đồ dùng, thiết bị làm việc, giảng dạy đầy đủ và hiện đại, luôn được làm việc trong môi trường thuận lợi.
Những giáo viên và cán bộ quản lý nhà trường là viên chức, công chức nhà nước được hưởng lương từ nguồn ngân sách Nhà nước và theo quy định chung cứ 3 năm lại lên lương 1 lần. Đồng thời họ cũng được hưởng mọi chế độ như: phụ cấp ưu đãi, nâng lương, chế độ nghỉ an dưỡng, ốm đau, chế độ nghỉ hưu theo đúng quy định. Bên cạnh đó các chế độ biểu dương khen thưởng ĐNGV các trường được ngành giáo dục thực hiện đầy đủ, đề nghị nhà nước tặng các danh hiệu: Huy chương vì sự nghiệp giáo dục; Nhà giáo ưu tú; Chiến sĩ thi đua các cấp; Giáo viên dạy giỏi các cấp;…
Tuy nhiên, chính sách này vẫn còn hạn chế là chỉ thu hút nguồn giáo viên trong biên chế, còn đối với giáo viên chưa vào biên chế hoặc giáo viên đã có bằng thạc sỹ, tiến sỹ thì chưa có chính sách đãi ngộ thỏa đáng. Chính vì vậy mà chỉ có dưới 20% số người được hỏi cho rằng chính sách đãi ngộ trên là có hiệu quả.
Để phát triển được đội ngũ giáo viên, các cán bộ, các cấp quản lý trong các trường THPT cần phải quan tâm, tính toán, điều chỉnh chế độ, chính sách hợp lý, từ đó mới có thể thu hút được những người có năng lực, có trình độ về phục vụ lâu dài cho nhà trường.
2.4.6. Đánh giá chung
2.4.6.1. Mặt mạnh
- ĐNGV các trường THPT Quận Hai Bà Trưng có phẩm chất chính trị vững vàng, tư cách đạo đức tốt, yêu nghề và hết lòng vì học sinh.
- ĐNGV phần lớn là giáo viên trẻ, được đào tạo bài bản, nhanh nhạy, dễ tiếp thu cái mới, có ý thức vươn lên, đây là một thuận lợi cho các hoạt động đổi mới giáo dục hiện nay.
- Phần lớn giáo viên có trình độ đạt chuẩn, nhiệt tình trong giảng dạy, có ý thức trách nhiệm cao, tinh thần khắc phục khó khăn, sáng tạo trong công việc. Một bộ phận giáo viên khoảng 30% có trình độ chuyên môn vững vàng là nòng cốt trong công tác chuyên môn của các trường.
2.4.6.2. Mặt yếu
- Số lượng GV hiện tại còn thiếu nhiều so với quy định đặc biệt là giáo viên ở các môn khoa học xã hội.
- Cơ cấu bộ môn, cơ cấu độ tuổi, cơ cấu giới tính còn có sự bất hợp lý góp phần làm cho tình trạng thiếu GV của các trường trầm trọng hơn.
- Chất lượng ĐNGV còn nhiều hạn chế, bất cập chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay:
+ Còn một bộ phận không nhỏ giáo viên chưa đạt chuẩn đào tạo.
+ Chất lượng chuyên môn, nghiệp vụ không đồng đều giữa các trường, các bộ môn. Tỉ lệ GV giỏi các cấp chỉ chiếm khoảng 30%, tỉ lệ này có xu hướng giảm dần khi thực hiện đổi mới chương trình GDPT. Tỉ lệ GV xếp loại TB khá cao gần 23%, trong thực tế tỉ lệ này còn cao hơn vì việc đánh giá xếp loại của các trường còn dễ dãi, nâng đỡ, động viên là chính.
+ Trình độ ngoại ngữ và tin học của phần lớn GV thấp nên khả năng tiếp nhận thông tin, kiến thức về giáo dục trong nước và quốc tế rất hạn chế; Vì vậy, chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới GD và xu thế hội nhập quốc tế.
2.4.6.3. Nguyên nhân của những hạn chế
- Nguyên nhân khách quan
+ Do việc thực hiện đổi mới nội dung chương trình, sách giáo khoa THPT từ năm học 2006 – 2007 và tăng tỉ lệ giáo viên THPT từ 2,1 GV/ lớp lên 2.25 GV/lớp nên làm cho số lượng GV trên toàn Quận thiếu và chất lượng GV chưa đáp ứng kịp yêu cầu đổi mới.