Phương Hướng Hoàn Thiện Pháp Luật Về Mua Lại, Sáp Nhập Ngân Hàng Thương Mại Ở Việt Nam

Kết luận chương 3


1. Pháp luật về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại đã được hình thành trong thời gian gần đây, có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại, phục vụ mục tiêu tái cơ cấu nền kinh tế, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng. Các quy định của pháp luật hiện hành đã giúp các ngân hàng thương mại chủ động thực hiện mua lại, sáp nhập phù hợp với định hướng, chiến lược phát triển của ngân hàng, tạo cơ sở pháp lý để nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô, quản lý hoạt động ngân hàng, đồng thời có cơ sở pháp lý để tái cấu trúc hệ thống ngân hàng.

2. Pháp luật về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại ở Việt Nam liên quan đến nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau như pháp luật về dân sự, pháp luật về doanh nghiệp, pháp luật về cạnh tranh, pháp luật về đầu tư, pháp luật về lao động, pháp luật về chứng khoán... do mỗi văn bản luật chi phối hay điều chỉnh các vấn đề khác nhau liên quan đến hoạt động mua lại, sáp nhập. Luật các tổ chức tín dụng là luật chuyên ngành điều chỉnh trực tiếp đến việc thành lập, hoạt động và tổ chức lại ngân hàng thương mại, đồng thời được đặt trong mối quan hệ với các luật khác khi các giải quyết các vấn đề liên quan đến việc mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại.

3. Bên cạnh những thành công mang lại, pháp luật về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại ở Việt Nam còn có một số tồn tại, hạn chế như khung pháp lý về mua lại, sáp nhập đối với doanh nghiệp nói chung còn thiếu, chưa cụ thể, chồng chéo và mâu thuẫn; khung pháp lý điều chỉnh hoạt động mua lại, sáp nhập đối với ngân hàng thương mại còn nhiều bất cập; còn có những khoảng trống pháp lý để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong thực tiễn khi thực hiện mua lại, sáp nhập; chưa tạo được cơ sở pháp lý vững chắc để thúc đẩy hoạt động này. Trên thực tế đã có nhiều bất cập khi thực hiện mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại thời gian qua, trong đó có nhiều vấn đề liên quan đến cơ chế pháp lý cần phải giải quyết.

4. Một số quốc gia đã xử lý tốt việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế vừa qua. Do đó cần nghiên cứu, tìm hiểu những kinh nghiệm quốc tế trong việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng để có thể học hỏi, vận dụng những kinh nghiệm hay, các bài học quý giúp hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại ở Việt Nam.

CHƯƠNG 4

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ MUA LẠI, SÁP NHẬP NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM


4.1. PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ MUA LẠI, SÁP NHẬP NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 177 trang tài liệu này.

Pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM vẫn còn những hạn chế, bất cập. Trước những yêu cầu mới của Hiến pháp năm 2013, yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam và thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước trong giai đoạn tới thì việc hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM ở Việt Nam là đòi hỏi cấp thiết. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM ở Việt Nam được xác định dựa trên một số yêu cầu chính sau đây:

4.1.1. Hoàn thiện pháp luật đáp ứng các yêu cầu về mua lại, sáp nhập doanh nghiệp

Pháp luật về mua lại và sáp nhập ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay - 17

Khi thực hiện mua lại, sáp nhập, các bên trong quan hệ mua lại, sáp nhập có nhu cầu chính đáng là cần một hành lang pháp lý vững chắc để thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình, cũng như bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp và thực hiện trách nhiệm của các bên trong quan hệ mua lại, sáp nhập. Để đáp ứng yêu cầu này, một số phương hướng nhằm hoàn thiện pháp luật đáp ứng yêu cầu tạo hành lang pháp lý khi thực hiện mua lại, sáp nhập doanh nghiệp được đặt ra như sau:

Thứ nhất, pháp luật về mua lại, sáp nhập phải đáp ứng yêu cầu về tính thống nhất, đồng bộ, minh bạch và hiệu quả trong hệ thống pháp luật, phù hợp với những cam kết của các quốc gia thành viên, của các tổ chức quốc tế như WTO, EU, ASEAN... Nguyên tắc công khai, minh bạch cần được hết sức tôn trọng để bảo đảm niềm tin và định hướng đúng cho thị trường. Bởi vậy, mọi biện pháp và kết quả thực hiện liên quan đến tái cấu trúc doanh nghiệp cần được cơ quan chức năng công bố một cách công khai, kịp thời. Các quy phạm về mua lại, sáp nhập phải thống nhất với nhau một cách tương đối, không được mâu thuẫn, chồng chéo với nhau. Để đáp ứng yêu cầu về tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật, các quy phạm pháp luật về mua lại, sáp nhập phải phù hợp với nội dung và tinh thần của Hiến pháp; các quy phạm pháp luật do cơ quan cấp dưới ban hành phải phù hợp với quy phạm do cơ quan cấp trên ban hành; các quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành phải phù hợp với văn bản, quy phạm do chính cơ quan mình đã ban hành trước đó;

các quy phạm pháp luật trong một văn bản quy phạm pháp luật phải thống nhất với nhau; văn bản quy phạm pháp luật, các quy phạm pháp luật phải phù hợp với các điều ước, thoả thuận quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.

Thứ hai, pháp luật về mua lại, sáp nhập phải rõ ràng, thông suốt, đúng đắn. Các quy phạm pháp luật phải mang tính hệ thống, nhất quán, chặt chẽ, tránh trùng lắp và mâu thuẫn. Pháp luật về mua lại, sáp nhập phải tạo ra hành lang pháp lý bình đẳng cho các chủ thể để có thể tham gia vào các quan hệ pháp lý khi thực hiện mua lại, sáp nhập, đồng thời pháp luật phải có tính khả thi, duy trì niềm tin của nhà đầu tư, tạo được niềm tin đối với người dân và xã hội... Để đáp ứng yêu cầu về tính minh bạch thì quy phạm pháp luật về mua lại, sáp nhập cần phải nhất quán, công khai, dễ tiếp cận, phải tin cậy được, phải lường trước và có thể dự đoán trước được. Pháp luật về mua lại, sáp nhập cần đáp ứng yêu cầu về hiệu quả để có thể thực hiện với những chi phí thấp, mang lại nhiều lợi ích cho xã hội. Pháp luật được ban hành kịp thời, đầy đủ, đồng bộ, phù hợp với các quy luật khách quan và phù hợp với các điều kiện kinh tế, xã hội; phải xem xét mức độ chi phí cụ thể, nhất là trong trường hợp cần có sự can thiệp của nhà nước nhằm đạt được các kết quả thực tế [74].

Thứ ba, văn bản pháp luật chuyên biệt điều chỉnh hoạt động mua lại, sáp nhập đối với một số loại hình doanh nghiệp cần được bổ sung những quy định về nội dung bên cạnh quy định về mặt thủ tục. Hiện nay, các quy định liên quan đến mua lại, sáp nhập đã được quy định trong Bộ luật dân sự, Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư, Luật cạnh tranh, Luật chứng khoán…Tuy nhiên, các quy định này mới phần lớn dừng lại ở việc xác lập về mặt hình thức, trong khi đó các vấn đề về nội dung cần phải được quy định đầy đủ, cụ thể, rõ ràng, tránh chồng chéo.

Thứ tư, các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động mua lại, sáp nhập cần được xây dựng sao cho vừa mang tính phù hợp thực tiễn, vừa phải có tính dự liệu để đảm bảo điều chỉnh linh hoạt các hoạt động này. Do đó cần phải xây dựng chính sách phù hợp với chiến lược và định hướng chiến lược tái cấu trúc doanh nghiệp nói chung và trong lĩnh vực ngân hàng ở hiện tại cũng như trong tương lai, phù hợp với tiến trình tái cơ cấu nền kinh tế, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, xã hội. Trên cơ sở này, pháp luật mới tạo được môi trường pháp lý bình đẳng cho các đối tượng bị điều chỉnh. Vì vậy, cần thay đổi cách thức xây dựng và phê duyệt chính sách, đó là công khai, tham vấn, trưng cầu ý kiến của những đối tượng bị điều chỉnh có lợi ích liên quan đến hoạt động tái cấu trúc doanh nghiệp, ngân hàng.

4.1.2. Hoàn thiện pháp luật đáp ứng các yêu cầu về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại

Với những kết quả thực hiện tái cấu trúc hệ thống ngân hàng trong thời gian vừa qua cho thấy, hệ thống NHTM nước ta đã giữ được sự ổn định trong quá trình tái cơ cấu, ổn định kinh tế vĩ mô, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, các kết quả của quá trình này còn chưa tương xứng với mục tiêu và kỳ vọng phát triển của nền kinh tế. Nguyên nhân chủ yếu là do còn thiếu một cách tiếp cận tổng hợp để xử lý tổng thể các vấn đề của tái cơ cấu hệ thống NHTM, đặc biệt là còn thiếu một khung khổ pháp lý mang tính hệ thống để tái cơ cấu NHTM trong bối cảnh tái cơ cấu nền kinh tế. Để giải quyết vấn đề này, phương hướng hoàn thiện pháp luật đáp ứng các yêu cầu về mua lại, sáp nhập NHTM, phục vụ cho mục tiêu tái cơ cấu hệ thống ngân hàng được đặt ra như sau:

Thứ nhất, pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM cần được hoàn thiện theo hướng đảm bảo nguyên tắc không để xảy ra đổ vỡ và mất an toàn hệ thống ngân hàng ngoài tầm kiểm soát của nhà nước, tuy nhiên cũng không loại trừ khả năng một hoặc một số ngân hàng quá yếu kém có thể đổ vỡ. Các quy định pháp luật được xây dựng và hoàn thiện nhằm phục vụ mục tiêu tái cơ cấu nền kinh tế nói chung, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng nói riêng, nhằm giảm nhanh số lượng ngân hàng yếu kém, hoặc đặt ra những vấn đề cần xử lý đối với một số ngân hàng cụ thể để ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an toàn hệ thống. Chính phủ cần xây dựng các kịch bản có thể xảy ra cũng như các biện pháp ứng phó kịp thời và hiệu quả khi hệ thống ngân hàng có những biến động. Ngoài ra, cần xây dựng những quy định để bảo vệ người gửi tiền, người lao động, cổ đông thiểu số và minh bạch hóa giao dịch của các bên liên quan.

Thứ hai, pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM phải tạo môi trường thuận lợi, ổn định cho hoạt động mua bán, sáp nhập và tổ chức lại doanh nghiệp. Hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập trong lĩnh vực ngân hàng cần tạo ra hành lang pháp lý để thu hút vốn từ nhà đầu tư nước ngoài thông qua hoạt động mua bán, sáp nhập và tổ chức lại ngân hàng. Việc nhà nước mua lại hoặc đầu tư vào vốn cổ phần của các ngân hàng yếu kém là một trong những giải pháp tạm thời cuối cùng đối với các NHTM không có khả năng khắc phục hoặc tái cơ cấu. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy hầu hết các nước công nghiệp phát triển đều phải thực hiện nghĩa vụ này. Tuy nhiên, việc mua lại hoặc đầu tư của nhà nước chỉ mang tính tạm thời, phần lớn nhà

nước sẽ bán lại cổ phần cho các nhà đầu tư khác sau khi tiến hành các biện pháp nhằm khôi phục hoạt động của các ngân hàng này. Trong một số trường hợp, sau khi rà soát và xác định nhóm các ngân hàng yếu kém, nhà nước có thể tiến hành kêu gọi các nhà đầu tư bên ngoài đồng tài trợ hay góp vốn cùng nhà nước để khôi phục hoạt động của các ngân hàng yếu kém. Nguồn vốn này có thể được trích ra từ các quỹ đặc biệt của nhà nước để tái cấu trúc hệ thống ngân hàng [3], do đó cần tạo quy định pháp lý để có thể huy động được nguồn lực trong việc tái cấu trúc ngân hàng. Bên cạnh đó là việc cần giữ vững ổn định kinh tế, xã hội và đảm bảo việc quản lý, kiểm soát hiệu quả của nhà nước, đồng thời tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, phát huy tính cạnh tranh của các thành phần kinh tế.

Việc hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập trong lĩnh vực ngân hàng cũng cần phải đáp ứng một số yêu cầu: (i) Tháo gỡ triệt để các khó khăn, vướng mắc đang cản trở hoạt động mua lại, sáp nhập và tổ chức lại ngân hàng; (ii) Bảo đảm tối đa sự phát triển ổn định của hệ thống pháp luật có liên quan, hạn chế đưa ra quá nhiều văn bản pháp luật mới, đồng thời bảo đảm các quy định mới được đưa ra tương thích với các quy định còn hiệu lực khác của hệ thống pháp luật; (iii) Phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam, với thông lệ, tập quán quốc tế, bảo đảm chủ quyền và lợi ích quốc gia.

Thứ ba, xây dựng khung pháp lý về mua lại, sáp nhập NHTM cần chuyên biệt, rõ ràng và đầy đủ. Ngân hàng là một doanh nghiệp đặc biệt có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế. Với tầm quan trọng như vậy, quy định về mua lại, sáp nhập NHTM cần được quy định nguyên tắc trong Luật các TCTD, để từ đó các văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý thấp hơn sẽ quy định chi tiết. Hiến pháp 2013 đã quy định, mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm và quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết. Kinh doanh hoạt động ngân hàng không bị pháp luật cấm nhưng có điều kiện chặt chẽ. Vì thế, nếu quy định hạn chế quyền kinh doanh của các chủ thể trong lĩnh vực ngân hàng cần được quy định bởi luật. Trong xu hướng xây dựng pháp luật hiện nay, đòi hỏi luật phải được xây dựng càng cụ thể càng tốt, để các quy định của luật có thể thi hành được ngay. Tuy nhiên, mua lại, sáp nhập NHTM đòi hỏi sự điều chỉnh của nhiều ngành luật với mức độ phức tạp cao, có nhiều quan hệ xã hội phát sinh, biến động liên tục khi thực hiện mua lại, sáp nhập cần phải điều chỉnh kịp thời, phù hợp, do đó cần quy định nguyên

tắc trong luật, để từ đó các văn bản hướng dẫn có cơ sở pháp lý để ban hành.

Thứ tư, ngoài việc xây dựng những nguyên tắc trong luật để xử lý các quan hệ xã hội cơ bản trong quá trình thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM, cần chú ý đến việc xây dựng các quy định pháp lý để đáp ứng và giải quyết các yêu cầu cụ thể, khách quan sau:

- Tạo ra khung pháp lý để nhà nước, các chủ thể ngân hàng và các bên liên quan có căn cứ thực hiện, đồng thời buộc phải thực hiện trong khung pháp lý đó trên cơ sở các quy định về tiêu chuẩn, điều kiện mua lại, sáp nhập; trình tự, thủ tục mua lại, sáp nhập; hệ quả pháp lý khi mua lại, sáp nhập; giải quyết tranh chấp khi mua lại, sáp nhập và các nội dung khác có liên quan. Pháp luật phải đáp ứng vai trò là điều kiện khung pháp lý để thương vụ mua lại, sáp nhập NHTM được diễn ra trên thực tế, an toàn.

- Luật các TCTD với tư cách là luật chuyên ngành, theo đó cần có các định nghĩa, khái niệm, quy định những nội dung điều chỉnh chủ yếu về mua lại, sáp nhập NHTM. Trong văn bản pháp luật điều chỉnh mua lại, sáp nhập, cần bổ sung đầy đủ quy định về nội dung đối với các vấn đề liên quan trực tiếp đến mua lại, sáp nhập NHTM như tiêu chuẩn, điều kiện mua lại, sáp nhập; trình tự, thủ tục mua lại, sáp nhập; hệ quả pháp lý khi mua lại, sáp nhập và giải quyết tranh chấp khi mua lại, sáp nhập, bao gồm cả trường hợp thực hiện tự nguyện và bắt buộc của nhà nước. Những vấn đề như xử lý hợp đồng cấp tín dụng hợp vốn, kiểm toán, định giá, bảo mật, cung cấp, công bố thông tin cũng cần ghi nhận để quy định cụ thể. Các nội dung về tiêu chuẩn, điều kiện mua lại, sáp nhập NHTM phải được quy định rõ ràng để cơ quan quản lý ngân hàng, các chủ thể tham gia mua lại, sáp nhập ngân hàng thực hiện thống nhất, minh bạch, nhằm đảm bảo việc can thiệp của NHNN trong việc mua lại, sáp nhập bắt buộc các NHTM yếu kém là có cơ sở pháp lý, đúng pháp luật, loại bỏ sự can thiệp của nhà nước đối với ngân hàng thông qua các quyết định, mệnh lệnh hành chính; đảm bảo rằng việc can thiệp của nhà nước trong các tình huống khác nhau sẽ không vi phạm các quy định pháp luật đã ban hành trước đây. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng bởi nó cho thấy sự can thiệp của nhà nước đối với các ngân hàng yếu kém là mang tính khách quan, bình đẳng và minh bạch, vì lợi ích chung của nền kinh tế, đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng, tài chính, tiền tệ quốc gia.

- Xây dựng các quy định pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM để tạo cơ sở pháp lý giúp các ngân hàng hoạt động có hiệu quả, không bị thâu tóm trong quá

trình kinh doanh cũng như đáp ứng quyền tự do kinh doanh của các chủ thể ngân hàng có nhu cầu mua lại, sáp nhập NHTM theo quy định của pháp luật.

4.1.3. Hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập đáp ứng các yêu cầu của nền kinh tế trị trường

Trong nền kinh tế thị trường, khi các quan hệ dân sự, kinh tế ngày càng trở nên phức tạp và khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới thì yêu cầu hoàn thiện pháp luật để đáp ứng những đòi hỏi của nền kinh tế thị trường càng trở nên cấp thiết. Đối với mọi nền kinh tế, cho dù là kế hoạch hóa tập trung hay nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như ở nước ta hiện nay đều cần phải dựa vào pháp luật để tồn tại và phát triển. Nền kinh tế thị trường tự thân vận động là chủ yếu thông qua nguyên tắc tự do kinh doanh, tự định đoạt, tự chịu trách nhiệm và tự do cạnh tranh nên cần tới pháp luật nhiều hơn.

Tại nhiều công trình khoa học, các tác giả đã nghiên cứu, phân tích những đặc thù của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam tác động đến pháp luật nói chung và pháp luật về mua lại, sáp nhập doanh nghiệp nói riêng, trên cơ sở đó đề ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này. Khái quát chung nhất để thấy nền kinh tế thị trường ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập doanh nghiệp và yêu cầu đối với việc hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này là nền kinh tế thị trường với việc vận hành theo các quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu, trong khi nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung với việc nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh, thông qua hệ thống các chỉ tiêu kế hoạch, quy luật giá trị hầu như chưa được tính đầy đủ.

Bằng pháp luật, nhà nước ghi nhận những nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị trường như tự do sở hữu, tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh, tự định đoạt, tự chịu trách nhiệm để thiết kế mô hình nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như ở Việt Nam. Nhà nước can thiệp bằng cách thức tạo hành lang pháp lý an toàn cho các nhà đầu tư trong hoạt động đầu tư, kinh doanh. Vì vậy, xây dựng nền kinh tế thị trường tất yếu phải xóa bỏ những tồn tại của cơ chế kế hoạch hóa tập trung để thị trường hoạt động theo đúng quy luật. Khi pháp luật hiện hành chưa dự liệu, phản ánh được các quy luật cạnh tranh và các quy luật thị trường khác có thể ảnh hưởng đến hoạt động mua bán doanh nghiệp trên thực tiễn... Do đó, để khắc phục những hạn chế và thích ứng với nền kinh tế thị trường, những giải pháp hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập doanh nghiệp cần được xây dựng trên một số

cơ sở sau đây:

Thứ nhất, pháp luật về mua lại, sáp nhập doanh nghiệp phải bảo đảm để thị trường hoạt động theo các quy luật của kinh tế thị trường như quy luật giá trị, cạnh tranh, cung cầu. Sự hoàn thiện của cơ chế kinh tế thị trường là điều kiện tiên quyết để hình thành thị trường mua bán doanh nghiệp. Nắm bắt và thực hiện theo các quy luật này sẽ tác động có hiệu quả đến hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp nói riêng. Đồng thời để thúc đẩy hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp phát triển, pháp luật cần ghi nhận hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp của các nhà đầu tư một cách rõ ràng nhằm đáp ứng quyền tự do kinh doanh của các chủ thể. Nhà nước cần tạo môi trường pháp lý an toàn để các nhà đầu tư thực hiện quyền tự do kinh doanh theo quy định, hạn chế và tiến tới xóa bỏ việc can thiệp thị trường theo mệnh lệnh hành chính.

Thứ hai, trong nền kinh tế thị trường, nhà nước chỉ kiểm soát hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp khi hoạt động đó có khả năng gây hạn chế cạnh tranh trên thị trường thông qua việc ban hành và thực thi pháp luật cạnh tranh. Các quy phạm của pháp luật cạnh tranh cần được thiết kế để phản ánh đúng thực tiễn mua lại, sáp nhập doanh nghiệp. Việc bảo hộ sản xuất, kinh doanh trong nước là cần thiết khi quá trình hội nhập quốc tế đang diễn ra nhanh chóng và sâu rộng, có thể làm cho những ngành sản xuất, kinh doanh gặp nhiều khó khăn, thách thức. Quá trình mua lại, sáp nhập của nhà đầu tư nước ngoài đối với doanh nghiệp trong nước là một phương thức tốt để có thể tận dụng ngay được những lợi thế của doanh nghiệp sở tại, nhất là trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng. Việc bảo hộ của nhà nước cần tuân theo các lộ trình mà Việt Nam đã cam kết. Thay đổi được tư duy quản lý kinh tế và điều chỉnh pháp luật trong nền kinh tế thị trường, khi đó việc vận hành nền kinh tế thị trường sẽ theo đúng quy luật, tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng, đảm bảo sự công bằng cho các nhà đầu tư kinh doanh, trong đó bao gồm cả lĩnh vực mua lại, sáp nhập.

Thứ ba, khắc phục những mặt trái và giảm thiểu những tác động của kinh tế thị trường khi hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập. Tích tụ tư bản thông qua tập trung kinh tế bằng hình thức mua lại, sáp nhập có thể hình thành doanh nghiệp với vị trí thống lĩnh thị trường và có thể lạm dụng vị trí đó để hạn chế cạnh tranh, gây thiệt hại cho nhà nước, doanh nghiệp và người dân. Mặt khác khi thực hiện tập trung kinh tế còn có thể dẫn đến việc người lao động bị sa thải, thất nghiệp, ảnh

Xem tất cả 177 trang.

Ngày đăng: 09/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí