Thực Trạng Công Tác Thanh Tra, Kiểm Tra Hoạt Động Doanh Nghiệp Nhà Nước Trên Địa Bàn Tỉnh Đắk Lắk

nhà nước. Tăng cường sự phối hợp giữa các sở, ban, ngành nhằm tham mưu kịp thời về công tác sắp xếp, chuyển đổi doanh nghiệp.

Để ổn định tâm lý người lao động trong các DNNN, tỉnh cũng đã tăng cường công tác tuyên truyền về chủ trương của Đảng và nhà nước, vận động người lao động tham gia chấp hành pháp luật nhà nước, chủ trương sắp xếp, chuyển đổi DNNN trong tình hình hiện nay. Kết hợp với thực thi các giải pháp giải quyết tốt việc sắp xếp, bố trí, sử dụng cán bộ; đào tạo, chuyển đổi nghề và xử lý lao động dôi dư. Bảo đảm đầy đủ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của người lao động. Nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước thông qua thực hiện nâng cao quản trị doanh nghiệp nhà nước; áp đặt kỷ luật thị trường, kỷ luật cạnh tranh đối với doanh nghiệp nhà nước. Tiếp tục đẩy mạnh tái cơ cấu các công ty nông nghiệp, lâm nghiệp theo hướng đảm bảo hài hòa lợi ích của nhà nước, doanh nghiệp và người dân.

Để cổ phần hóa và tái cấu trúc DNNN có hiệu quả, dựa trên các hướng dẫn của Trung ương, HĐND và UBND tỉnh đã ban hành các cơ chế khuyến khích, thu hút các nhà đầu tư chiến lược tham gia mua cổ phần, thoái vốn nhà nước, hoàn thiện tiêu chí cổ đông lớn, cổ đông chiến lược có đủ năng lực tài chính, công nghệ và quản trị để cơ cấu lại và phát triển doanh nghiệp, đồng thời loại bỏ những nhà đầu tư yếu kém về năng lực tài chính, quản trị tham gia góp vốn trong quá trình sắp xếp, đổi mới DNNN.

2.2.5. Thực trạng công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk

Công tác QLNN của chính quyền tỉnh đối với DNNN tại Đắk Lắk hiện nay được thực hiện thông qua nhiều phương thức khác nhau, trong đó thanh tra, kiểm tra là phương thức kiểm soát chủ yếu, quan trọng của các cơ quan quản lý Nhà nước. Thời gian qua, phương thức này đã mang lại nhiều kết quả tích cực đối với các DNNN hoạt động trên địa bàn tỉnh.

Trong 5 năm qua, trên địa bàn tỉnh đã có trên dưới 40 DNNN đưa vào kế hoạch thanh tra, kiểm tra. Về cơ bản so với giai đoạn trước, số lượt thanh kiểm tra đã giảm xuống, chỉ bằng 82% những năm trước.

Toàn tỉnh có 42 đơn vị thanh tra, kiểm tra bao gồm cả các cơ quan Trung ương đóng trên địa bàn. Thanh tra tỉnh được UBND tỉnh giao chủ trì, thống nhất với các cơ quan liên quan trong việc phối hợp thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp nói chung và DNNN nói riêng, và triển khai các cuộc thanh tra, kiểm tra theo kế hoạch đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.

Quá trình kiểm tra, các cơ quan chuyên ngành đã áp dụng phần mềm “Hệ thống quản lý kế hoạch thanh tra, kiểm tra trên địa bàn tỉnh". Qua đó, ngành Thanh tra của tỉnh Đăk Lăk đã phát hiện một số DNNN có nhiều đơn vị vào thanh tra, kiểm tra trùng lặp. Từ đó, Thanh tra Tỉnh đã đề nghị các cơ quan thanh tra, kiểm tra phối hợp thành các đoàn thanh tra, kiểm tra, giảm được gánh nặng cho các DNNN. Các đơn vị thanh tra, kiểm tra thực hiện việc cập nhật kết quả thực hiện thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp lên hệ thống quản lý kế hoạch thanh tra, kiểm tra trên địa bàn tỉnh.

Thời gian qua, Thanh tra Tỉnh đã thực hiện nghiêm Chỉ thị số 20/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc chấn chỉnh hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với doanh nghiệp để khắc phục những bất cập trong triển khai, tạo điều kiện để các doanh nghiệp hoạt động. Qua đó, Thanh tra tỉnh đã phối hợp với các Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Thông tin và Truyền thông điều chỉnh kế hoạch thanh tra, kiểm tra Đồng thời tham mưu UBND Tỉnh tổ chức các buổi tập huấn, tuyên truyền về thực hiện Chỉ thị số 20/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc chấn chỉnh hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với doanh nghiệp. Qua đó, các doanh nghiệp nói chung và DNNN nói riêng trên địa bàn đã yên tâm sản xuất kinh doanh.

2.2.6. Thực trạng bộ máy quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.

Công tác QLNN đối với các DNNN là thẩm quyền và trách nhiệm của cả chính quyền trên địa bàn tỉnh bao gồm cả HĐND, UBND, các cơ quan chuyên môn của tỉnh, dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy Khối Các cơ quan và DNNN tỉnh Đắk Lắk. Theo đó, HĐND và UBND tỉnh đã ban hành các văn bản pháp lý hướng dẫn, định hướng, điều tiết cho hoạt động của các DNNN, cả về phương hướng sản xuất kinh doanh, hỗ trợ sản xuất kinh doanh trong thời kỳ khó khăn, tái cơ

cấu chuyển đổi mô hình hoạt động của DNNN; còn các cơ quan chuyên môn của tỉnh quản lý các DNNN theo từng lĩnh vực chuyên môn thuộc thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ của mình. Sở Tài chính theo dõi kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNNN và đóng vai trò đại diện phần vốn của Nhà nước trong các doanh nghiệp; Sở Kế hoạch Đầu tư xây dựng các kế hoạch về đầu tư, đấu thầu, thẩm định liên quan đến hoạt động đầu tư của các DNNN; các Sở Lao động, Nông nghiệp, Công nghiêp, Thương mại… giám sát và điều tiết hoạt động của các DNNN theo từng lĩnh vực chuyên môn cụ thể, căn cứ vào các quy định của Nhà nước. Bên cạnh đó, các DNNN trên địa bàn tỉnh cũng luôn nhận được sự quan tâm, lãnh đạo về tư tưởng của Đảng ủy Khối Các cơ quan và DNNN tỉnh Đắk Lắk.

Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk - 11

Có thể khẳng định rằng, về cơ bản bộ máy QLNN đối với DNNN trên địa bàn tỉnh đã phát huy tốt vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò điều tiết, quản lý, hỗ trợ của công tác QLNN đối vơi các DNNN trên địa bàn tỉnh. không ngừng củng cố, xây dựng và kiện toàn hoạt động của DNNN vừa mang lại hiệu quả sản xuất kinh doanh, vừa là công cụ vật chất đắc lực của Nhà nước trong quản lý nền kinh tế, khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.

Bộ máy QLNN đã thể hiện tốt vai trò vai trò vừa là “huấn luyện viên” vừa là “trọng tài” của DNNN trên địa bàn, đã chỉ đạo những biện pháp, những cơ chế để tham mưu, tháo gỡ những khó khăn cho các DNNN, để các doanh nghiệp tập trung phát triển kinh tế - xã hội, góp phần vào sự phát triển chung trên địa bàn tỉnh trong nhiệm kỳ 2015 - 2020 vừa qua.

2.3. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk

2.3.1. Những kết quả đã đạt được

Một là, các DNNN trên địa bàn tỉnh trong những năm qua đã có đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội toàn tỉnh, khẳng định vai trò then chốt và là lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước. Nhiệm kỳ vừa qua, các DNNN sản xuất kinh doanh trong các lĩnh vực nông - lâm - thủy sản, công nghiệp – xây dựng thương mại, dịch vụ, du lịch… tiếp tục có sự phát triển

ổn định. Trong đó, hoạt động kinh doanh xăng, dầu và khí đốt bảo đảm chất lượng, ngày càng khẳng định được uy tín thương hiệu, góp phần quan trọng vào ổn định thị trường, đóng góp cho ngân sách địa phương. DNNN sản xuất, kinh doanh phân phối điện luôn duy trì hoạt động hiệu quả, bảo đảm 100% xã và trên 96% số hộ dân nông thôn trong tỉnh được sử dụng nguồn điện ổn định. Tốc độ tăng trưởng điện thương phẩm đạt 10%/năm và tổn thất điện năng giảm đáng kể. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cung cấp nước trong tỉnh cũng đã có nhiều cố gắng bảo đảm nguồn nước sinh hoạt cho nhân dân và phục vụ hiệu quả nhu cầu sản xuất. Hiệu quả của công tác QLNN trước hết thể hiện ở kết quả hoạt động của các DNNN đóng trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk. Những DNNN đã có đóng góp nổi bật cho sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh như sau:

- Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam (VRG) là đơn vị doanh nghiệp gắn bó lâu năm với tỉnh Đắk Lắk, với 5 ngành nghề kinh doanh chính bao gồm: trồng, chăm sóc và chế biến mủ cao su; sản phẩm công nghiệp cao su; chế biến gỗ; phát triển các khu công nghiệp và nông nghiệp công nghệ cao. Thu nhập trung bình của người lao động trong công ty đạt 6-10 triệu đồng/tháng. Chính quyền tỉnh đã luôn luôn ủng hộ và tạo điều kiện đầu tư, sản xuất - kinh doanh, vì thế VRG góp phần đóng góp vào phát triển kinh tế, an sinh xã hội và an ninh quốc phòng của tỉnh Đắk Lắk.

- Một DNNN lớn nữa trên địa bàn tỉnh là Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), EVN đã đảm bảo cung ứng điện cho toàn địa bàn, đạt 1.7 tỷ kWh. Ngoài ra, EVN cũng hoàn thành tốt các công trình đầu tư, không phát sinh vướng mắc. 3 nhà máy thủy điện do EVN đầu tư đã hoàn thành đảm bảo chất lượng và đúng tiến độ. Bên cạnh đó, EVN cũng tiếp tục đầu tư hệ thống lưới điện, các trạm biến áp, và các dự án năng lượng điện tái tạo để đảm bảo nhu cầu điện của địa phương.

- Tiếp nữa, Tổng công ty Cà phê Việt Nam (Vinacafe) với 21 đơn vị đóng tại Đắk Lắk, quản lý 18.404 ha đất tự nhiên, với tổng số lao động trên địa bàn tỉnh là 20.096 người. Doanh thu năm 2019 của Vinacafe đạt 1.849 tỷ đồng, tiền lương trung bình của người lao động đạt 4,2 triệu đồng/tháng, chưa kể thu nhập vượt khoán của người lao động nhận khoán.

- Tổng công ty Viễn thông MobiFone và Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) cũng là những doanh nghiệp hoạt động lâu năm tại tỉnh Đắk Lắk và đã đem những dịch vụ viễn thông chất lượng cao cho người dân địa phương. Bên cạnh đó, VNPT đã và đang hỗ trợ UBND tỉnh Đắk Lắk về ứng dụng công nghệ trong công tác quản lý hành chính, dịch vụ công, phúc lợi xã hội cho người dân cũng như xây dựng thành phố thông minh.

- Là đơn vị cung cấp nhiên liệu cho các hoạt động tưới tiêu, phục vụ sản xuất nông nghiệp của doanh nghiệp và người dân, Petrolimex Nam Tây Nguyên trực thuộc Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) đã đóng góp trực tiếp cho phát triển kinh tế và an sinh xã hội tỉnh Đắk Lắk. Petrolimex luôn đánh giá cao vai trò quản lý của chính quyền tỉnh, những kiến nghị, đề xuất của doanh nghiệp đều được UBND tỉnh Đắk Lắk lắng nghe, hỗ trợ giải quyết, qua đó, giúp doanh nghiệp mở rộng mạng lưới trạm kinh doanh xăng dầu. Bên cạnh đó, UBND đã chỉ đạo Sở, Ban ngành trong vấn đề quản lý thị trường xăng dầu, ngăn chặn tình trạng làm ăn phi pháp, tạo lập môi trường kinh doanh lành mạnh.

Hai là, thời gian qua, số lượng doanh nghiệp nhà nước đã giảm mạnh cùng với việc thực hiện cơ cấu lại, cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại DNNN. Mặc dù chỉ chiếm gần 0,8% số lượng doanh nghiệp đang hoạt động có kết quả sản xuất, kinh doanh, nhưng các doanh nghiệp nhà nước vẫn đang nắm giữ nhiều nguồn lực quan trọng của nền kinh tế, chiếm khoảng 25,78% tổng số vốn sản xuất, kinh doanh; 23,4% giá trị tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn của các doanh nghiệp đang hoạt động có kết quả sản xuất, kinh doanh; quản lý, khai thác phần lớn tài sản thuộc sở hữu toàn dân như khoáng sản, tài nguyên, kết cấu hạ tầng một số ngành then chốt,... Ba là, các DNNN đang giữ vai trò chi phối nhiều ngành, lĩnh vực quan trọng,

then chốt của nền kinh tế. Trong ngành viễn thông, thông tin, liên lạc, Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội (Viettel) và Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) giữ vai trò chi phối. Viettel cũng là doanh nghiệp đầu tư hiệu quả và có uy tín ra một số nước. Trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, 4 ngân hàng thương mại có vốn đầu tư nhà nước lớn là Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam (Vietinbank), Ngân

hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (Agribank) với tổng tài sản và dư nợ tín dụng chiếm trên 50% toàn hệ thống ngân hàng, đóng vai trò bảo đảm cung ứng kịp thời nguồn vốn để phát triển kinh tế, hỗ trợ các doanh nghiệp mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh, đồng thời cũng là lực lượng tiên phong thực hiện các chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về lãi suất, tỷ giá nhằm giữ ổn định thị trường tiền tệ và an toàn hệ thống tín dụng ngân hàng; là công cụ hỗ trợ dẫn dắt thị trường và góp phần thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.

Bốn là, DNNN có vai trò lớn trong sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích. Nhiều tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước trực tiếp tham gia phục vụ an ninh

- quốc phòng, thực hiện các chính sách an sinh xã hội, kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm an ninh - quốc phòng và chủ quyền quốc gia. Các doanh nghiệp nhà nước cũng đóng vai trò quan trọng trong xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng cần thiết cho phát triển kinh tế - xã hội, trước hết là kết cấu hạ tầng giao thông, nông nghiệp, nông thôn, năng lượng, viễn thông.

Trong một số thời điểm, nhiều tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước đã thực hiện các nhiệm vụ chính trị - xã hội, phục vụ chính sách điều tiết kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, bình ổn giá,... Đặc biệt trong đại dịch COVID-19, mặc dù đối mặt với nhiều khó khăn, nhưng các doanh nghiệp nhà nước luôn là công cụ mạnh để Đảng, Nhà nước điều tiết, giảm thiểu các tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế - xã hội trong nước.

2.3.2. Một số hạn chế, yếu kém còn tồn tại trong công tác quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk

Mặc dù đạt được nhiều kết quả tích cực, nhưng việc thực hiện vai trò QLNN đối với DNNN ở tỉnh Đăk Lăk vẫn còn một số hạn chế sau:

Thứ nhất, thực tế, hiện nay DNNN vẫn đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, thực hiện các chính sách phát triển kinh tế, an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo, trực tiếp nắm các nguồn lực quan trọng và giữ vị trí chi phối trong nhiều ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Tuy nhiên, kết quả thực hiện vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, mà DNNN là nòng cốt chưa rõ. Trong một số lĩnh

vực, DNNN chưa thể hiện rõ vai trò nổi bật trong việc dẫn dắt, tạo động lực, mở đường, hướng dẫn, thúc đẩy các thành phần khác phát triển, thúc đẩy liên kết chuỗi giá trị gia tăng. Vai trò của DNNN trong hỗ trợ và nâng cao chất lượng đời sống nhân dân, phát triển kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu tại các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn chưa nổi bật. Việc DNNN tham gia thực hiện các chính sách an sinh xã hội, phục vụ an ninh - quốc phòng có kết quả đáng ghi nhận, song thiếu rõ ràng về mục tiêu, nhiệm vụ và hiệu quả của DNNN chưa tương xứng với nguồn lực nắm giữ.

Thứ hai, hiện nay đang tồn tại những khó khăn trong thực hiện quản lý vốn nhà nước tại DNNN trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, nhất là những vướng mắc trong thực hiện sắp xếp DNNN thuộc tỉnh quản lý; các vấn đề về quỹ đất, vốn điều lệ khi thành lập và điều chỉnh vốn điều lệ trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa thuộc trung ương quản lý … Hiện tại, tỉnh Đắk Lắk chưa tiến hành rà soát lại tất cả các đề án tái cấu trúc của các DNNN theo yêu cầu của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước để tiếp tục điều chỉnh, bổ sung phù hợp với những yêu cầu mới, gắn tái cấu trúc DNNN với yêu cầu thị trường tại địa phương, chủ động đề xuất hoàn thiện thể chế, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, như tăng cường quyền tự chủ của doanh nghiệp, các vấn đề trong đầu tư phát triển, sử dụng vốn, xử lý vấn đề liên quan đến nguồn nhân lực, đất đai…

Thứ ba, Theo quy định hiện hành, vướng mắc lớn nhất hiện nay của DNNN là trong nền kinh tế thị trường phải hội tụ nhiều điều kiện, qua nhiều bước đi, theo nguyên tắc lấy cạnh tranh làm động lực phát triển. Nhưng nhiều tập đoàn, tổng công ty nhà nước ở Việt Nam lại được hình thành từ mệnh lệnh hành chính với “công thức” ghép nhỏ thành lớn. Bởi vậy, khi đối mặt những yếu tố không thuận, cạnh tranh gay gắt và khó khăn, cùng những yếu kém nội tại, một số đơn vị đã thất bại. Những thất bại này đang trở thành thách thức lớn, nếu không muốn nói là lực cản đối với quá trình tái cơ cấu, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) hiện nay.

Thứ tư, những vướng mắc trong công tác thanh kiểm tra doanh nghiệp:

Hoạt động thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp cũng cho thấy rất nhiều hạn chế, bất cập như: Nội dung, phạm vi thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp chưa rõ ràng, chưa phù hợp, chưa sát với thực tế, có nơi, có lúc còn vượt khỏi phạm vi thẩm quyền quản lý; hoạt động thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp chưa bảo đảm tính công bằng, công khai, minh bạch, thời gian thanh tra, kiểm tra còn kéo dài gây nhiều phiền hà cho doanh nghiệp; việc ban hành kết luận thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp còn chậm, đặc biệt còn chưa làm rõ được vi phạm của doanh nghiệp, chưa kiến nghị được biện pháp xử lý vi phạm cụ thể; vẫn còn những biểu hiện của tiêu cực, nhũng nhiễu trong hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với doanh nghiệp. Những bất cập, hạn chế trong hoạt động thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp nói trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân như nhận thức chưa đúng và đầy đủ, quy định của pháp luật còn nhiều hạn chế, quá trình tổ chức thực hiện còn nhiều bất cập. Những bất cập chủ yếu trong quá trình tổ chức thực hiện có thể kể đến là: Sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo đối với hoạt động thanh tra, kiểm tra nói chung và thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp ở một số bộ, ngành địa phương còn chưa sát sao, quyết liệt, có nơi, có lúc còn có tư tưởng cục bộ, không sẵn sàng phối hợp với các cơ quan Nhà nước có liên quan khác; trình độ chuyên môn, ý thức trách nhiệm và đạo đức công vụ của một bộ phận công chức, thanh tra viên, kiểm tra viên còn yếu kém, kỷ luật công vụ chưa nghiêm, chưa bảo đảm sự công bằng; sự kết nối và chia sẻ thông tin trong hoạt động thanh tra, kiểm tra nói chung, trong hoạt động thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp nói riêng là điểm mấu chốt trong quá trình phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền thanh tra, kiểm tra còn chưa được thực hiện tốt. Cơ sở dữ liệu về hoạt động thanh tra, kiểm tra nói chung, hoạt động thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp nói riêng còn thiếu hụt. Một số giải pháp đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp trong thời gian tới

2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong công tác quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk

a) Nguyên nhân khách quan

- Tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk còn nhiều khó khăn so với các địa phương trên cả nước, ảnh hưởng lớn đến kết quả hoạt động sản xuất

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 12/06/2023