ý nghĩa chính trị - pháp lý và lý luận - thực tiễn quan trọng. Đây cũng là lý do để chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài: “Các tội xâm phạm trật tự công cộng trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang)” làm đề tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu và điểm mới khoa học của luận văn.
Chương XIX Bộ luật hình sự (BLHS) Việt Nam năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 (sau này là Chương XXI BLHS năm 2015) quy định về các tội xâm phạm an toàn công cộng, TTCC. Các nội dung chính cũng như các điều luật trong chương này, trong đó có sự phân tích các dấu hiệu pháp lý hình sự và hình phạt của nhóm tội phạm xâm phạm TTCC đã được một số nhà khoa học - luật gia hình sự quan tâm nghiên cứu, đồng thời thể hiện ở một số sách chuyên khảo, tham khảo, bình luận, giáo trình đại học và luận văn thạc sĩ, chẳng hạn như:
* Giáo trình, sách chuyên khảo, tham khảo:
[1] GS. TS Đỗ Ngọc Quang, Chương XIX - Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng. Trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), do GS.TSKH. Lê Cảm chủ biên, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội 2003;
[2] GS.TS. Võ Khánh Vinh, Chương X - Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng. Trong sách: Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), do GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội 2001;
[3] GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, Chương XXV - Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng. Trong sách: Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Tập II), do GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 2010;
[4] TS. Trương Quang Vinh, Bình luận các điều 241 đến 256, trong sách: “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999” (tài bản có sửa chữa, bổ sung), Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2008;
[5] GS.TS. Trần Minh Hưởng (chủ biên), Chương XIX - Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng. Trong sách: Tìm hiểu Bộ luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và những văn bản hướng dẫn thi hành, Nxb Lao động, Hà Nội 2010;
[6] TS. Phạm Văn Beo, Bài 10 - Các tội xâm phạm an toàn công cộng,
Có thể bạn quan tâm!
- Các tội xâm phạm trật tự công cộng trong luật hình sự Việt Nam trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang - 1
- Phân Nhóm Các Tội Phạm Xâm Phạm Trật Tự Công Cộng
- Các Tội Xâm Phạm Trật Tự Công Cộng Trong Bộ Luật Hình Sự Một Số Nước Trên Thế Giới
- Các Tội Xâm Phạm Trật Tự Công Cộng Theo Quy Định Của Bộ Luật Hình Sự Việt Nam Năm 1999
Xem toàn bộ 127 trang tài liệu này.
trật tư công cộng. Trong sách: Luật hình sự Việt Nam (Quyển 2 - Phần các tội phạm), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2010;
[7] PGS.TS. Trần Hải Âu, Vũ Thế Công (chủ biên), Lý luận chung về trật tự công cộng và bảo đảm trật tự công công và các quy định của pháp luật về bảo đảm trật tự công cộng, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội,. 2011;
[8] GS.TS. Trần Minh Hưởng, Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, trật tự quản lý hành chính, Nxb Văn hóa dân tộc Hà Nội 2002;
[9] TS. Nguyễn Đức Mai, Chương XIX - Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng. Trong sách: Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999, Tập thể tác giả, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001.
[10] ThS. Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học chuyên sâu Bộ luật hình sự - Phần các tội phạm, Tập VI - Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2005; v.v…
* Luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ luật học
Luận văn thạc sĩ luật học về đề tài này chưa có, chỉ có một số tội phạm riêng lẻ trong nhóm các tội xâm phạm TTCC đã được đề cập, chẳng hạn:
[1] Nguyễn Thanh Hải, Tội gây rối trật tự công cộng trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011;
[2] Nguyễn Ngọc Anh, Tội đua xe trái phép trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011;
[3] Nguyễn Văn Giang, Tội đánh bạc trong luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Hòa Bình, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2012;
[4] Nguyễn Thị Hồng Hạnh, Tội làm môi giới hối lộ trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013;
[5] Nguyễn Thu Huyền, Tội chứa mại dâm trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2015; v.v…
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu đã nêu trên chỉ xem xét các tội xâm phạm TTCC với ý nghĩa là những tội phạm/tội danh cụ thể để bình luận
các dấu hiệu pháp lý hình sự và hình phạt, cũng như phân tích việc định tội danh, quyết định hình phạt trong tương quan giữa các tội phạm này với một số tội phạm khác có cấu thành tội phạm có tính tương tự hoặc chỉ xem xét dưới góc độ phòng ngừa dưới góc độ tội phạm học cả nhóm tội phạm an toàn công cộng, TTCC trong BLHS năm 1999, mà chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu độc lập, có hệ thống và ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học dưới góc độ pháp lý hình sự về các tội xâm phạm TTCC và trên một địa bàn cụ thể là tỉnh Hà Giang. Do đó, điểm mới về mặt khoa học của đề tài lần đầu tiên trong khoa học luật hình sự đề cập đến riêng nhóm tội phạm này dưới góc độ một luận văn thạc sĩ luật học.
3. Mục đích và đối tượng nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống về những vấn đề pháp lý cơ bản của nhóm các tội phạm xâm phạm TTCC như khái niệm, các dấu hiệu pháp lý hình sự và hình phạt, đồng thời đi sâu vào phân tích thực tiễn xét xử các tội phạm này trên địa bàn tỉnh Hà Giang giai đoạn 2010 - 2015. Trên cơ sở đó, luận văn chỉ ra một số vướng mắc, tồn tại trong công tác xử lý, định tội danh và hình phạt để đề xuất một số kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật và những giải pháp khác nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của BLHS Việt Nam về xử lý loại tội phạm này.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn đúng như tên gọi của đề tài - Các tội phạm xâm phạm TTCC trong luật hình sự Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm, cũng như thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý như: Lịch sử, lý luận về Nhà nước và pháp luật, xã hội học pháp luật, luật hình sự, tội phạm học và triết học, những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí trong và ngoài nước.
4.2. Các phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù của khoa học luật hình sự như: Phân tích, tổng hợp và thống kê xã hội học, phương pháp so sánh, đối chiếu, phương pháp điều tra án điển hình để phân tích các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề khoa học cần nghiên cứu.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng của luận văn là ở chỗ - tác giả đã làm rõ các vấn đề chung các tội xâm phạm TTCC trong luật hình sự Việt Nam, phân tích khái quát lịch sử hình thành và phát triển của các quy định trong luật hình sự nước ta về nhóm tội phạm này từ năm 1945 đến nay, phân biệt các tội phạm trong cùng nhóm; làm sáng tỏ các quy định của BLHS năm 1999 về các tội xâm phạm TTCC và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Hà Giang giai đoạn 2010 - 2015, qua đó chỉ ra nguyên nhân của thực trạng này và đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và những giải pháp khác nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của BLHS nước ta về các tội phạm xâm phạm TTCC ở khía cạnh lập pháp và việc áp dụng trong thực tiễn.
Bên cạnh đó, luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận cần thiết cho các nhà khoa học - luật gia, cán bộ thực tiễn và các sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành tư pháp hình sự, cũng như phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng BLHS Việt Nam liên quan đến tội xâm phạm TTCC, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống nhóm tội phạm này, cũng như giữ vững an ninh trật tự, an toàn xã hội hiện nay ở nước ta nói chung và trên địa bàn tỉnh Hà Giang nói riêng.
6. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương;
Chương 1: Những vấn đề chung về các tội xâm phạm trật tự công cộng trong luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Các tội xâm phạm trật tự công cộng theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
Chương 3: Tiếp tục hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm trật tự công cộng.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ CÔNG CỘNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. TRẬT TỰ CÔNG CỘNG VỚI TƯ CÁCH LÀ KHÁCH THỂ QUAN TRỌNG ĐƯỢC LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM BẢO VỆ
1.1.1. Khái niệm trật tự công cộng và các tội xâm phạm trật tự công cộng
* Khái niệm trật tự công cộng
Đóng vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm phải kể đến luật hình sự với tư cách là một ngành luật duy nhất trong hệ thống pháp luật của Nhà nước quy định những hành vi nguy hiểm cho xã hội nào là các tội phạm và danh mục hình phạt các biện pháp pháp lý hình sự cần áp dụng đối với những người đã thực hiện các hành vi nguy hiểm cho xã hội đó. Điều 8 BLHS năm 1999 đã xác định các khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ đó là: độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội… Trong các khách thể đó trật tự, an toàn xã hội là một khách thể quan trọng, có ý nghĩa nền tảng, gắn chặt với sự phát triển ổn định chung của xã hội, là thước đo, tiêu chí để đánh giá sức mạnh của cơ quan bảo vệ pháp luật, văn minh pháp lý của công dân [77, tr.320].
Xét riêng trong lĩnh vực chung của xã hội, an toàn công cộng, TTCC được coi là điều kiện bảo đảm cho mọi công dân có cơ hội tồn tại, phát triển và sử dụng tốt năng lực, cống hiến của mình để xây dựng một xã hội văn minh, dân chủ, giàu đẹp, có cuộc sống ấm no, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc. Cho nên dưới bất kỳ hình thức nào, bằng cách này hay cách khác, việc giữ gìn và bảo vệ an toàn công cộng, TTCC không những là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa của Nhà nước, mà đến lượt mình, Nhà nước lại đòi hỏi tất cả các cơ quan, tổ chức và mọi công dân phải tuân thủ một cách nghiêm túc pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội xã hội chủ nghĩa [77, tr. 321].
Cho nên, dưới góc độ pháp lý, tất cả các hành vi xâm phạm “an toàn công
cộng, trật tự công cộng” đều gây nên những thiệt hại nhất định cho cuộc sống bình thường của công dân cần thiết phải bị xử lý, tùy theo tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm mà áp dụng hình thức xử lý khác nhau từ xử phạt hành chính đến xử lý hình sự.
Khách thể trật tự, an toàn xã hội được quy định thành một chương riêng. Chương XIX - Các tội phạm xâm phạm an toàn công cộng, TTCC, có số lượng các điều luật tương đối lớn (gồm 59 điều, từ điều 202 đến điều 256). Như vậy với tư cách là khách thể quan trọng được luật hình sự bảo vệ, đòi hỏi chúng ta phải làm rõ phạm trù “trật tự công cộng”.
Theo cuốn “Từ điển từ và ngữ Hán - Việt” của Giáo sư Nguyễn Lân, Nxb. Văn học, Hà Nội 2003: “Trật tự là tình trạng ổn định, có thứ bậc trên dưới, trước sau...” [32, tr. 16, 704].
Mặt khác, theo “Từ điển Bách khoa toàn thư”:
TTCC là một mặt của trật tự, an toàn xã hội và có nội dung bao gồm những quy định chung về trật tự, vệ sinh, văn hóa; sự tuân thủ những quy định của pháp luật và phong tục, tập quán, sinh hoạt được mọi người thừa nhận; tình trạng yên ổn, có trật tự, tôn trọng lẫn nhau trong lao động, sinh hoạt, nghỉ ngơi… [82].
Còn dưới góc độ pháp lý, Từ điển Luật học có giải thích cụ thể “trật tự công cộng” là:
Trạng thái ổn định, có tổ chức, có kỷ luật ở nơi công cộng. Những nơi phục vụ lợi ích công cộng như đường phố, quảng trường, công viên, bệnh viện, nhà hát, rạp chiếu bóng, bãi biển, khu nghỉ mát… được tổ chức sắp xếp ngăn nắp, các quy ước chung được mọi người tôn trọng, thực hiện nghiêm chỉnh. Quy tắc bắt buộc phải tuân theo để bảo vệ lợi ích chung của xã hội, thể hiện toàn bộ yêu cầu cơ bản của xã hội về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… [68, tr. 68, 809].
Ngoài ra, trong một nghiên cứu chuyên sâu, PGS.TS. Trần Hải Âu, Vũ Thế Công và tập thể tác giả quan niệm như sau:
TTCC là tình trạng xã hội có ổn định, hoạt động của con
người tuần tự, được tổ chức theo một quy tắc nhất định và tuân thủ các quy tắc đó tại không gian công cộng để bảo đảm lợi ích chung cho tất cả mọi người trong khi cùng tham gia hoạt động [1, tr.7-8]; v.v…
Tóm lại, từ các phân tích trên, theo chúng tôi khái niệm đang nghiên cứu có thể được định nghĩa như sau: TTCC là trạng thái xã hội có trật tự được hình thành và điều chỉnh bởi các quy tắc, quy phạm nhất định ở những nơi công cộng mà mọi người phải tuân theo.
* Khái niệm các tội xâm phạm trật tự công cộng
Xét riêng dưới góc độ khoa học, quan điểm về khái niệm “các tội xâm phạm an toàn công cộng, TTCC ” mặc dù còn nhiều ý kiến khác nhau, song tựu trung lại tổng hợp các quan điểm đó vẫn thống nhất trong việc nêu ra bản chất pháp lý của nhóm tội phạm này và gộp chung các tội xâm phạm an toàn công cộng với TTCC chứ không có định nghĩa riêng về các tội xâm phạm TTCC, do đó, chúng tôi phân tích chung cả “an toàn công cộng, TTCC ” để từ đó rút ra khái niệm đang nghiên cứu.
Trước hết, có tác giả quan niệm:
Các tội xâm phạm an toàn, TTCC là những hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm hai nhóm quan hệ xã hội cùng loại liên hệ chặt chẽ với nhau và có những đặc điểm chung: các quan hệ xã hội trong lĩnh vực an toàn công cộng và TTCC [4, tr. 5, 439].
Ngoài ra, theo GS.TS. Đỗ Ngọc Quang:
Các tội xâm phạm an toàn, TTCC là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, xâm phạm vào những quy định của Nhà nước về an toàn, TTCC trong các lĩnh vực giao thông vận tải, phòng cháy chữa cháy, tin học, lao động sản xuất, quản lý vũ khí, phương tiện, công cụ hỗ trợ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, và trong những lĩnh vực khách của trật tự xã hội gây nên những thiệt hại về tính mạng, tổn hại đến sức khỏe, tài sản của Nhà nước và của công dân [39, tr. 37, 494].
Với các quan điểm này có nhân tố hợp lý là đã phân loại đầy đủ và chi tiết từng nhóm tội xâm phạm đến các lĩnh vực khác nhau liên quan đến an toàn
công cộng, TTCC, nêu được mối liên hệ giữa hai nhóm có quan hệ chặt chẽ với nhau là TTCC và an toàn công cộng tuy nhiên lại chưa thấy nêu dấu hiệu chủ thể của nhóm tội phạm này trong khái niệm đã nêu.
Tuy nhiên, theo GS.TS. Võ Khánh Vinh trên cơ sở khái niệm tội phạm nói chung đã chỉ ra:
Các tội xâm phạm an toàn, TTCC là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự (TNHS) thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến an toàn công cộng, TTCC gây ra những thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe của nhân dân, gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước và của cá nhân [75, tr.74, 401].
Cũng trên cơ sở khái niệm về tội phạm nói chung, trong cuốn “Tìm hiểu BLHS nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và những văn bản hướng dẫn thi hành" của GS.TS. Trần Minh Hưởng (chủ biên) và tập thể tác giả đã khẳng định:
Các tội xâm phạm an toàn, TTCC là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, do người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm vào những quy định của Nhà nước về an toàn công cộng, TTCC , gây ra những thiệt hại về tài sản của Nhà nước, của tổ chức, thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản của công dân, xâm phạm đến hoạt động bình thường ở những nơi công cộng [29, tr.439].
Quan điểm này nêu tương đối đầy đủ nội dung, trong đó nhấn mạnh thêm việc các hành vi xâm phạm đến cả “hoạt động bình thường ở những nơi công cộng, nhưng trong dấu hiệu chủ hiệu chủ thể của nhóm tội phạm này còn chưa nêu” dấu hiệu “đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự ”, vì đây là một dấu hiệu hoàn toàn khác với dấu hiệu “có năng lực trách nhiệm hình sự ”; v.v...
Tóm lại, dưới góc độ khoa học luật hình sự, theo chúng tôi khái niệm đang nghiên cứu được định nghĩa như sau: Các tội xâm phạm TTCC là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, do những người có đủ năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm vào các quy định của Nhà nước về TTCC, gây ra những thiệt hại về tài sản của Nhà nước, của tổ chức,