132 sinh viên là đảng viên. Các hoạt động giáo dục về
giá trị
truyền
thống, đạo đức cách mạng đã được Nhà trường, các tổ chức Đoàn thể
quan tâm thực hiện định kỳ trong năm học và trong những ngày lễ lớn của dân tộc, ngày truyền thống của Trường, Khoa, qua đó nâng cao ý thức, trách nhiệm đối với bản thân và xã hội của người học. Việc triển khai kịp
thời Quy chế
đánh giá kết quả rèn luyện sinh viên của Bộ
Giáo dục và
Đào tạo cũng đem lại nhiều hiệu quả cho công tác quản lý, giáo dục sinh viên (hàng năm có trên 80% sinh viên đạt điểm rèn luyện từ khá trở lên). Nhà trường không chỉ đảm bảo tốt các điều kiện trong quá trình học tập mà còn hướng đến các hoạt động định hướng về việc làm, bổ trợ thêm các kỹ năng xã hội thông qua các hoạt động về các diễn đàn nghề nghiệp
việc làm, hội chợ việc làm, tiếp xúc với doanh nghiệp, các hoạt động hướng nghiệp.
Kết quả
học tập của khoá 31 hệ
cao đẳng và khóa 6 hệ
(đào tạo theo niên chế) trong năm học 2008 2009 có 1.901/2.018 (đạt 95%) sinh viên tốt nghiệp ra Trường.
Bảng 2.2. Kết quả tốt nghiệp của sinh viên hệ chính quy
Tổng | Xuất sắc | Giỏi | Khá | TB Khá | Trung bình | |
20042005 | 749 | 04 | 137 | 471 | 136 | 01 |
20052006 | 2.124 | 08 | 191 | 877 | 667 | 381 |
20062007 | 1.497 | 05 | 218 | 768 | 440 | 66 |
20072008 | 1.758 | 10 | 322 | 859 | 426 | 141 |
20082009 | 1.901 | 13 | 546 | 798 | 361 | 183 |
Có thể bạn quan tâm!
- Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Theo Học Chế Tín Chỉ Và Sự Thúc Đẩy Sinh Viên Ý Chí Tự Học.
- Dạy Học Theo Tín Chỉ Và Sự Thúc Đẩy Sinh Viên Nâng Cao Ý Chí Tự Học.
- Quản Lý Hoạt Động Của Giảng Viên, Sinh Viên Ở Trên Lớp
- Nhận Thức Của Sinh Viên Về Hoạt Động Tự Học
- Đánh Giá Công Tác Quản Lý Hoạt Động Tự Học Của Sinh Viên Trước Xu Thế Đào Tạo Theo Học Chế Tín Chỉ
- Vài Nét Về Mục Tiêu Chiến Lược Phát Triển Trong Bối Cảnh Mới Của Trường
Xem toàn bộ 142 trang tài liệu này.
(Nguồn: Phòng Đào
tạo)
Qua bảng số
liệu trên ta thấy, tỷ
lệ sinh viên đạt loại Xuất sắc,
Giỏi, Khá tăng lên trong từng năm học. Tỷ lệ tốt nghiệp cũng tăng theo. Cụ thể:
+ Năm 2004 – 2005: 749/1152, đạt 65%
+ Năm 2005 – 2006: 2.124/3.034, đạt 70%
+ Năm 2006 – 2007: 1.497/1.773, đạt 84,4%
+ Năm 2007 – 2008: 1.758/1.875, đạt 93,76%
+ Năm 2008 – 2009: 1.901/2.018, đạt 95%
Với đội ngũ giảng viên nhiều kinh nghiệm, tâm huyết, có trình độ chuyên môn tốt, cùng với đội ngũ quản lý có phẩm chất đạo đức tốt, có tinh thần trách nhiệm cao đã góp phần từng bước nâng cao chất lượng đào tạo của Nhà trường. Hàng năm, Nhà trường đã đào tạo và cung cấp
cho xã hội hàng nghìn nhân lực chất lượng cao, phục vụ đắc lực sự
nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, địa phương. Chất lượng sinh viên tốt nghiệp được các nhà tuyển dụng, chuyên môn đánh giá tốt.
Nghiên cứu khoa học của sinh viên ngày càng có hiệu quả do được cải tiến về cách thức tổ chức với sự gia tăng vai trò của tổ chức Đoàn, Hội và nhóm ngành. Công tác nghiên cứu khoa học của Trường những năm qua luôn đạt hiệu quả kép: Vừa phục vụ yêu cầu, mục tiêu phát triển kinh tế, chính trị xã hội và văn hoá của đất nước; vừa phục vụ nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực chuyên ngành.
Bảng 2.3. Kết quả nghiên cứu khoa học của sinh viên
Số giải cấp trường | Số giải cấp tỉnh | |
20042005 | 14 | 07 |
20052006 | 13 | 05 |
20062007 | 11 | 06 |
20072008 | 11 | 08 |
20082009 | 16 | 09 |
(Nguồn: Phòng QLKH và HTQT)
2.1.5. Đội ngũ giảng viên và cơ sở Trường
vật chất sư
phạm của
2.1.5.1. Đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý
Tổng số
cán bộ
viên chức hiện đang làm việc tại Trường là 738
người (nam: 48,5%; nữ: 51,5%). Số cán bộ giảng dạy là 415 người, trong đó có 01 Giáo sư và 01 Phó Giáo sư; số giảng viên có trình độ sau đại học
là 200, có 192 cử
nhân, cao đẳng và trình độ
khác là 21. Ngoài ra, Nhà
trường còn cộng tác với hơn 50 cán bộ thỉnh giảng từ các trường đại học khác trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long, TP. Hồ Chí Minh và các nơi khác.
Lực lượng cán bộ
của Trường ngày càng được trẻ
hoá, đảm bảo
được yêu cầu về chuyên môn. Đội ngũ cán bộ giảng dạy của Trường có kinh nghiệm cao trong công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Hiện nay, cơ bản Trường đã tương đối đảm bảo được tỉ lệ số giảng viên/số
sinh viên quy định (1/24), đội ngũ cán bộ đủ
về số
lượng và trình độ
chuyên môn đáp ứng yêu cầu công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học.
Công tác bồi dưỡng đội ngũ cán bộ của Trường cũng được quan
tâm, đầu tư về thời gian và vật chất. Hàng năm, Trường đều tổ chức đào
tạo nghiệp vụ từ
đầu cho cán bộ
mới được tuyển dụng cũng như
tạo
điều kiện để cán bộ có thể học tập, nâng cao trình độ chuyên môn ở nước ngoài. Nhà trường có cơ chế tạo điều kiện về thời gian và hỗ trợ về tài chính theo quy định của tỉnh cho cán bộ đi nghiên cứu, tham gia các hoạt động chuyên môn nghiệp vụ ở nước ngoài theo phân công của Trường. Trường đã xây dựng được đội ngũ cán bộ có đầy đủ phẩm chất, có khả năng sư phạm và năng lực quản lý, có đủ điều kiện trình độ về chuyên
môn, tin học và ngoại ngữ, có khả năng thích ứng với sự chuyển đổi sang hình thức đào tạo mới.
2.1.5.2. Cơ sở vật chất sư phạm của Trường
Nhà trường được giao quản lý, sử dựng diện tích đất (tính bằng
ha): gần 50ha. Nhà trường đã cố gắng tập trung quy hoạch theo hướng
xây dựng mới, cải tạo các cơ sở
đã xuống cấp, sắp xếp lại cơ
sở làm
việc, học tập nhằm tăng diện tích sử dụng, tăng cường đầu tư trang thiết bị cho Thư viện, hệ thống phòng tư liệu, phòng thực hành, thực tập cho một số ngành học nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo, nghiên cứu khoa học và quản lý, từng bước tin học hoá quản lý và đào tạo.
Ngoài hệ thống Thư viện chung của Đại học An Giang, với nguồn tư liệu đa dạng, phong phú, được tin học hoá và hiện đại hoá, sinh viên Nhà trường còn được tìm kiếm tài liệu, cập nhật kiến thức, nâng cao trình độ chuyên môn tại các phòng tư liệu chuyên ngành, các trung tâm nghiên cứu, các phòng thực hành nghiệp vụ tại các đơn vị đào tạo trong Trường. Sách và tài liệu trong Thư viện của Đại học An Giang, Phòng tư liệu của
các đơn vị
trong Trường nhiều về
số lượng, đa dạng về
chủng loại,
thường xuyên được cập nhật, đầu tư. Tổng số đầu sách trong các Thư
viện của Trường, Khoa: hơn 10.000 đầu sách. Hệ thống Thư viện được tin học hoá, thuận tiện cho việc tra cứu tài liệu. Với mục tiêu chuẩn hoá, hiện đại hoá các mặt hoạt động, trong những năm qua, Trường chú trọng vào việc hiện đại hoá cơ sở vật chất, trang thiết bị, nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo (hệ thống âm thanh, camera tại các giảng đường,
với số lượng máy projector, overhead, video, LCD, phòng học chuẩn,
phòng hội thảo, hội nghị, phòng thực hành,…).
Tổng số
máy tính trong
Trường gần 1.500, trong đó: Dùng cho khối hành chính, văn phòng: 250;
dùng cho sinh viên học tập: 1.250. Diện tích phục vụ đào tạo từng bước được cải thiện, góp phần đảm bảo chất lượng đào tạo, tạo điều kiện cho người học có thể tiếp cận được nguồn tri thức phong phú và luôn được cập nhật.
2.2. Phân tích hoạt động của Khoa Sư phạm (www.agu.edu.vn)
2.2.1. Lịch sử phát triển và nhiệm vụ
Theo quyết định thành lập Trường Đại học An Giang của Thủ
tướng Chính phủ, Trường Cao đẳng An Giang được sát nhập và chuyển thành Khoa Sư phạm của Trường Đại học An Giang kể từ năm học 2000
2001.
Hiện nay, Khoa có tất cả 288 giảng viên, nhân viên; 10 bộ môn:
Toán, Vật Lý, Hoá học, Sinh vật, Ngữ văn, Sử Địa, Tâm lý Giáo dục,
Ngoại ngữ, Mỹ thuật Nữ công, Giáo dục Mầm non.
Khoa Sư phạm Trường Đại học An Giang có chức năng đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ giáo viên các ngành cho các bậc học, các ngành học: mẫu giáo, tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông trong tỉnh An Giang và các tỉnh lân cận: Đồng Tháp, Kiên Giang, Cần Thơ.
Trong năm học 2004 2005 đến nay, Khoa Sư phạm đảm nhận đào tạo giáo viên các cấp học mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, với gần 5.000 lượt sinh viên/năm học.
Vào ngành Sư phạm, sinh viên được cung cấp đầy đủ kiến thức các bộ môn khoa học cơ bản liên quan trực tiếp đến ngành đào tạo và được
huấn luyện kỹ học,....
lưỡng về
phương pháp giảng dạy, về
nghiên cứu khoa
Ngoài việc thực hiện các nhiệm vụ qui định chung, Khoa Sư phạm tập trung vào nhiệm vụ trọng tâm là cải tiến phương pháp giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
Tập thể cán bộ giảng dạy Khoa Sư phạm đã không ngừng tự nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho mình, cải tiến phương pháp dạy
học và nghiên cứu khoa học. Hàng năm khoa đều có tổ chức Hội thảo,
Hội thi Nghiệp vụ Sư giảng dạy.
phạm trong sinh viên và cải tiến phương pháp
Việc kết hợp giữa Khoa Sư phạm và các trường phổ thông ở trong
tỉnh, đã tạo điều kiện tốt cho việc rèn luyện nghiệp vụ ngành Sư phạm.
2.2.2. Đội ngũ cán bộ
Tổng số giảng viên: 246
cho sinh viên
sinh
Trình độ sau đại học: 118 thạc sĩ, 34 đang học thạc sĩ, 07 nghiên cứu
Giảng viên chính: 76
Thông qua các chuyên gia tiếng Anh từ nhiều nước, các cán bộ
giảng dạy tiếng Anh đã được tiếp nhận phương pháp dạy học tiếng Anh tiên tiến, có hiệu quả. Trình độ của cán bộ giảng dạy tiếng Anh nâng cao rõ rệt.
2.2.3. Hoạt động đào tạo
Hiện nay, Khoa Sư phạm đào tạo 3 bậc: Đại học, Cao đẳng và
Trung học gồm 24 ngành, đáp ứng được nhu cầu tuyển dụng giáo viên
trong tỉnh và các tỉnh Đồng Tháp, Kiên Giang, 2 huyện Vĩnh Thạnh – Thốt Nốt của thành phố Cần Thơ. Khoa Sư phạm là đơn vị có thời gian đào tạo lâu năm nhất Trường cũng như tạo được hiệu ứng, lòng tin, uy tín trong
nhân dân. Sinh viên Khoa Sư phạm chủ yếu là sinh viên thuần nhất về
bản chất, nghiệp vụ, hoàn cảnh, điều kiện và có tinh thần cầu tiến, ham học hỏi, tay nghề tốt.
2.3. Thực trạng công tác quản lý hoạt động tự học của sinh
viên ở Trường Đại học An Giang (trong đó có khoa Sư phạm) trước xu thế đào tạo theo học chế tín chỉ
Quản lý hoạt động tự học được xem là một nội dung cơ bản của quản lý Nhà trường. Quản lý hoạt động tự học là quản lý các hoạt động học tập tích cực của người học và các điều kiện đảm bảo cho người học học tập tích cực, nhằm nâng cao hiệu quả học tập của người học và hiệu quả đào tạo của cơ sở giáo dục. Quản lý hoạt động tự học của sinh viên gồm các nội dung sau:
viên,
Quản lý việc xây dựng và thực hiện kế
Quản lý nội dung tự học của sinh viên,
hoạch tự
học của sinh
Quản lý việc bồi dưỡng phương pháp tự học cho sinh viên.
Để tìm hiểu thực trạng việc quản lý hoạt động tự học của sinh
viên, chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn sinh viên, cán bộ quản lý và giảng viên của Trường, dựa trên các kết quả điều tra của các nhà nghiên cứu,
qua đó có được những thông tin và số
liệu về
thực trạng và hiệu quả
quản lý đối với hoạt động tự học của sinh viên.
2.3.1. Thực trạng hoạt động tự học của sinh viên
2.3.1.1. Nhận thức của sinh viên về hoạt động tự học
Để nâng cao hiệu quả dạy học nói riêng và chất lượng giáo dục
đào tạo nói chung thì phải chú trọng nâng cao năng lực tự học cho sinh
viên. Tinh thần của các Nghị quyết Trung ương 4 (khóa VII) và Nghị quyết
Trung ương 2 (khóa VIII) đã được thể chế hóa trong Luật giáo dục 2005 ở
điều 36b như
sau:
“Phương pháp giáo dục đại học phải coi trọng bồi
dưỡng năng lực tự học, tự nghiên cứu, tạo điều kiện cho người học phát triển tư duy sáng tạo, rèn luyện kỹ năng thực hành, tham gia nghiên cứu, thực nghiệm, ứng dụng". Có được năng lực tự học mới có thể học suốt đời được. Vì vậy, ở đại học, quan trọng nhất là học cách học.
Phương pháp giáo dục mới " lấy người học làm trung tâm" với mục
tiêu trang bị
cho người học không chỉ
kiến thức chuyên môn mà còn cả
những kỹ năng, năng lực giao tiếp, khả năng phân tích, sáng tạo và có óc phê phán, suy nghĩ độc lập. Theo quan điểm "dạy học lấy người học làm trung tâm", việc dạy học phải xuất phát từ người học, tức là phải xuất phát từ nhu cầu, động cơ, đặc điểm và điều kiện của người học. Những nhu cầu học tập của sinh viên phản ánh những yêu cầu của xã hội nhưng có những nét riêng. Dạy học lấy sinh viên làm trung tâm đầu tiên phải nhận thức đúng đối tượng người học trong những hoàn cảnh, điều kiện cụ thể, với những ưu điểm và nhược điểm,... Có nghĩa là phải tiến hành việc học tập trên cơ sở có hiểu biết những năng lực đã có của sinh viên. Phải để cho sinh viên hoạt động cả về thể chất và tinh thần chứ không để cho sinh viên bị động tiếp thu mà đòi hỏi sinh viên phải tích cực suy nghĩ, tích cực hoạt động. Phải động viên, khuyến khích và tạo điều kiện để sinh viên thường xuyên tự kiểm tra, tự đánh giá quá trình học tập của mình để không ngừng cải thiện phương pháp học tập dần dần tiến lên có được phương pháp tự học, tự đào tạo, tự giải quyết các vấn đề trong lý luận và thực tiễn một cách độc lập, sáng tạo, qua đó có được ý chí và năng lực tự học sáng tạo suốt đời.