Nhận Thức Nghề Nghiệp Và Con Đường Giúp Các Em Nhận Thức Nghề

hội là đào tạo nguồn năng lực vừa có học vấn phổ thông hoàn chỉnh, vừa có kỹ năng nghề nghiệp cao. Đồng thời cũng góp phần đắc lực vào việc phân luồng hợp lý sau THCS và THPT.

- Nhiều trường phổ thông có bộ phận chuyên môn làm công tác tư vấn tâm lý và tư vấn nghề cho học sinh nhằm giúp các em khắc phục trở ngại về tâm lý trong quá trình học tập và có hướng chọn ngành, nghề cho phù hợp với năng lực của bản thân và thị trường lao động.

- Chương trình học do Bộ giáo dục và các địa phương biên soạn theo hướng mềm hóa, hiện đại hóa.

- Hoa Kì: Học sinh được học chương trình “Giáo dục nghề nghiệp” từ tiểu học. Chương trình này góp phần thực hiện mối liên hệ giữa nhà trường và sản xuất. Đồng thời tạo điều kiện cho học sinh tham gia vào tất cả các quá trình công nghệ để giải quyết các vấn đề thực tế. Tại Mỹ đã thành lập những hội đồng thực hiện sự hợp tác giữa nhà trường với xã hội, bao gồm đại diện của trường học, xí nghiệp, các thành phần kinh tế trong thị trường lao động. Gần 10.000 nghiệp đoàn đã tham gia công việc của hội đồng, thu hút hàng năm 600.000 học sinh vào thực hành sản xuất. Ví dụ ở bang Michigan, 1 hội đồng phục vụ 33 trường. Học sinh được thực hành lao động và học những nghề khác nhau như thợ hàn, thợ cơ khí tự động, thợ trang điểm… ở các xí nghiệp khác nhau.

- Ý: Giáo dục Ý có các bộ phận chính như học viện và hướng nghiệp. Giáo dục tiểu học và trung học cơ sở cho trẻ từ 6 đến 14 tuổi là bắt buộc, trong đó có 5 năm tiểu học, 3 năm THCS. Kết thúc giáo dục bắt buộc, học sinh có nhiều lựa chọn giữa các loại trường PTTH khác nhau: Cổ điển, khoa học, kỹ thuật, cơ khí, kế toán, ngôn ngữ, nghệ thuật. Tất cả các trường PTTH ở Ý đều kéo dài 5 năm. Kết thúc PTTH, học sinh có thể chọn bất cứ khoa đại học nào.

- Ở một số nước khác

Giáo dục lao động, kỹ thuật, hướng nghiệp được thực hiện qua việc giảng dạy các môn học, nhất là môn kỹ thuật hoặc môn Công nghệ. Ví dụ ở Malaysia, học sinh được học môn nghề và công nghệ với các nội dung: Những nguyên tắc cơ bản của kế toán, kinh tế cơ sở, thương nghiệp, khoa học công nghệ, khoa học gia đình, kỹ thuật cơ khí, kỹ thuật xây dựng, kỹ thuật điện và điện tử, công nghệ của kỹ thuật, vẽ kỹ thuật.

Ở bang Brandenburg và một số bang khác của CHLB Đức, học sinh được học kỹ thuật theo các chủ đề sau: Lao động và sản xuất, xây dựng và nhà ở, cung cấp điện nước và xử lý phế thải; vận tải và giao thông; thông tin liên lạc. Các chủ đề trên được

xem xét trong chu kỳ: Kỹ thuật sản xuất - bán và mua sản phẩm kỹ thuật - sử dụng vận phẩm kỹ thuật - kiểm tra, bảo dưỡng và sủa chữa các sản phẩm kỹ thuật - tái sản xuất và xử lý phế thải.

Ở Anh, học sinh được học chương trình thiết kế và môn công nghệ. Qua đó học sinh có cơ hội để phát triển khả năng thiết kế và công nghệ qua hệ thống bài tập thiết kế và làm ra sản phẩm, tập trung vào hoạt động thực hành và hoạt động khám phá, đánh giá những sản phẩm và ứng dụng của nó. Học sinh cũng có cơ hội để áp dụng những kiến thức, kỹ năng hiểu biết từ chương trình học tập.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

Ở Hàn Quốc, học sinh nam được học môn kỹ nghệ, học sinh nữ học kinh tế gia đình bao gồm: Nông nghiệp, công nghệ thương mại, ngư nghiệp. Đây là môn học nằm trong chương trình tự chọn bắt buộc của lĩnh vực nhân văn và khoa học.

Tại các nước khác như: Nhật, Đức, Pháp, Nga,… giáo dục lao động, giáo dục nghề nghiệp cho học sinh phổ thông cũng được đưa vào chương trình học bắt buộc. Ví dụ như ở Liên bang Nga, nội dung tin học và công nghệ thông tin được coi trọng học ở cả 3 cấp. Riêng môn công nghệ thì được học sâu về thực hành công nghệ thông tin.

Quản lý hoạt động hướng nghiệp cho học sinh trung học cơ sở huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang - 3

Tóm lại: Vấn đề giáo dục kỹ thuật, giáo dục nghề nghiệp cho học sinh phổ thông là một xu thuế chung và được nhiều nước quan tâm. Tùy yêu cầu, mục tiêu giáo dục phổ thông của từng nước mà mức độ nội dung, phương pháp giáo dục khác nhau. Tuy nhiên, việc đưa giáo dục kỹ thuật, giáo dục nghề nghiệp vào trường phổ thông đều nhằm đạt được mục tiêu là tạo cho học sinh những kỹ năng cần thiết cho cuộc sống lao động như kỹ năng thông tin, lập kế hoạch, kỹ năng thiết kế, kỹ năng gia công, vận hành, tổ chức kinh doanh và giải quyết các tình huống trong cuộc sống.

1.1.2. Ở Việt Nam

So với các nước trên thế giới, công tác hướng nghiệp đối với sự nghiệp giáo dục ở Việt Nam là một phạm trù còn rất mới mẽ cả về lý thuyết và hoạt động thực tiễn. Những vấn đề GDHN ở trường phổ thông từ lâu đã được Đảng và Chính phủ rất quan tâm như: Quyết định 126/CP ra ngày 13 tháng 09 năm 1981 của chính phủ “Về công tác giáo dục hướng nghiệp trong trường phổ thông và việc sử dụng hợp lý học sinh các cấp phổ thông cơ sở và trung học phổ thông tốt nghiệp khi ra trường”, Chỉ thị 33/2003/TCT-BGD&ĐT của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT về việc tăng cường giáo dục hướng nghiệp...

Trong thời đại hiện nay, khi mà sự phát triển của khoa học công nghệ ngày càng đem lại nhiều lợi ích lớn lao cho sự phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia, việc trang bị cho con người, đặc biệt là thế hệ trẻ những kiến thức kỹ năng về kỹ

thuật, công nghệ đã trở thành một yêu cầu không thể thiếu. Chính vì vậy, ở nhiều quốc gia, việc giáo dục kỹ thuật cho học sinh phổ thông các cấp được hết sức coi trọng. Có thể thấy rõ vấn đề qua thực tiễn giáo dục kỹ thuật ở một số nước như sau [Hội thảo khoa học: Định hướng nghề nghiệp cho học sinh phổ thông các dân tộc thiểu số ở tây Nguyên, Trường ĐHSPHN, 3-2008. Các đại biểu đã đóng góp nhiều tham luận quan trọng, nhằm đánh giá và đưa ra những đề suất nhằm nâng cao quản lý hoạt động hướng nghiệp, tiêu biểu như: PGS.TS. Nguyễn Kế Hào; PGS.TS. Đặng Danh Ánh; PGS.TS. Nguyễn Văn Lê; TS. Nguyễn Thị Thu Hằng; PGS.TS. Nguyễn Hữu Long…

Thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 của Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về “đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo”; Chỉ thị số 10- CT/TW ngày 05/12/2011 của Bộ Chính trị về “phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, củng cố kết quả phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở, tăng cường phân luồng học sinh sau trung học cơ sở và xóa mù chữ cho người lớn”, để nâng cao chất lượng giảng dạy hướng nghiệp trong trường phổ thông nhằm đẩy mạnh công tác phân luồng học sinh sau trung học, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có văn bản Số: 3119/ BGDĐT-GDCN ngày 17 tháng 6 năm 2014 V/v hướng dẫn phối hợp để thực hiện giáo dục hướng nghiệp, đào tạo kỹ năng nghề nghiệp cho học sinh phổ thông.

Vấn đề giáo dục hướng nghiệp cho học sinh phổ thông cũng đã được rất nhiều nhà quản lý và nhà khoa học quan tâm từ rất lâu:

- Người có công đóng góp rất lớn trong sự nghiệp GDHN của Việt Nam đó là Phạm Tất Dong. Ông đã nghiên cứu rất tỉ mỉ về: Hứng thú nghề nghiệp, những vấn đề cơ bản về nội dung và phương pháp hướng nghiệp cho học sinh… Điều này được thể hiện trong hàng loạt các bài báo, bài viết của ông như: Tác phẩm: Hướng nghiệp theo tinh thần nghị quyết Đại hội IX - Kỉ yếu hội thảo khoa học, trường ĐHSPHN; Gần đây ông đã có bài viết rất quan trọng là: Đề xuất một số giải pháp cụ thể về công tác hướng nghiệp trong giai đoạn 2005 - 2010 [18]…

- Một số tác giả tiêu biểu khác như: TS. Nguyễn Thị Thu Hằng, một số kinh nghiệm phối hợp nhà trường với cha mẹ học sinh để làm tốt công tác hướng nghiệp (2008), kỷ yếu hội thảo Khoa học - Trường ĐHSP Hà Nội [25], PGS.TS. Nguyễn Văn Lê, kinh nghiệm về hướng nghiệp ở một số nước trên thế giới và một số vấn đề đặt ra đối với công tác hướng nghiệp ở nước ta (2008), kỷ yếu hội thảo Khoa học - Trường ĐHSP Hà Nội [31]; Nguyễn Văn Hộ, Nguyễn Thị Thanh Huyền (2006), Hoạt động giáo dục hướng nghiệp và giảng dạy kỹ thuật trong trường phổ thông, NXB

Giáo dục, Hà Nội [27]; Đặng Danh Ánh với bài viết “Tư vấn chọn nghề cho học sinh phổ thông” [3]; Nguyễn Đức Trí, với bài viết “Đổi mới cơ cấu trình độ đào tạo trong giáo dục nghề nghiệp ở nước ta” - Tạp chí GD số 87-2004 [47]và “Hướng nghiệp một số vấn đề lí luận và thực tiễn” - Tạp chí GD số 119 - 2005 [46]; PGS.TS. Trần Quốc Thành, định hướng giá trị nghề nghiệp của học sinh THPT một số tỉnh miền núi phía Bắc [44], Ngoài ra còn rất nhiều công trình nghiên cứu, các luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ cùng nghiên cứu vấn đề này.

1.2. Các khái niệm liên quan

1.2.1. Việc làm

Theo từ điển “Kinh tế khoa học xã hội” xuất bản tại Paris năm 1996, khái niệm việc làm được định nghĩa như sau: “Việc làm là công việc mà người lao động tiến hành nhằm có được thu nhập bằng tiền hoặc hiện vật”. Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, người lao động làm chủ tư liệu sản xuất, việc làm có nghĩa là thực hiện quyền làm chủ trên tư liệu sản xuất đó, vừa làm việc cho cá nhân người lao động, vừa làm việc cho xã hội”.

Như vậy, trong điều kiện hiện nay, có thể hiểu khái niệm việc làm như sau: Việc làm là hoạt động lao động có ích, không bị pháp luật ngăn cấm, tạo thu nhập hoặc lợi ít cho bản thân, cho gia đình người lao động hoặc cho một cộng đồng nào đó.

1.2.2. Nghề nghiệp

1.2.2.1. Khái niệm

Nghề nghiệp theo chữ la tinh là Professio có nghĩa là công việc chuyên môn được hình thành một cách chính thống, là dạng lao động đòi hỏi một học vấn nào đó, là cơ sở hoạt động cơ bản giúp con người tồn tại. Nghề nghiệp nãy sinh và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người. Khi loài người còn ở xã hội nguyên thuỷ, trình độ sản xuất thấp, khi đó chưa có sự phân công lao động xã hội rõ ràng, do đó khái niệm nghề chưa rõ. Khi xã hội phát triển, có sự phân công lao động xã hội, lao động trí óc tách ra khỏi lao động chân tay, khi đó hình thành nhiều nghề, các thuật ngữ liên quan cũng xuất hiện.

Theo tác giả Climov E.A: “Nghề nghiệp là lĩnh vực sử dụng sức lao động vật chất và tinh thần của con người một cách có giới hạn, cần thiết cho xã hội (do sự phân công lao động mà có), nó tạo cho con người khả năng sử dụng lao động của mình để thu lấy những phương tiện cần thiết cho việc tồn tại và phát triển [14].

Theo từ điển Tiếng Việt: “Nghề là công việc chuyên môn làm theo sự phân công lao động của xã hội. Nghề nghiệp là nghề để sinh sống và phục vụ xã hội” [52].

Từ một số khái niệm nêu trên, ta có thể hiểu nghề nghiệp là một thuật ngữ chỉ một hình thức lao động trong xã hội theo sự phân công lao động mà ở đó con người sử dụng sức lao động của mình để tạo ra sản phẩm vật chất và tinh thần phục vụ cho cá nhân và cho xã hội. Đồng thời, thông qua việc hành nghề để mỗi người duy trì và phát triển cuộc sống cá nhân. Nghề nghiệp chính là tổ hợp chuyên môn có quan hệ cùng loại với nhau ở một khía cạnh nào đó.

1.2.2.2. Đặc điểm hoạt động của nghề.

Khi bàn đến đặc điểm hoạt động của nghề trong xã hội, người ta thường đề cập đến các vấn đề sau:

* Đối tượng lao động: Là hệ thống những thuộc tính, những mối quan hệ qua lại tương hỗ của các hiện tượng, các quy trình mà cương vị lao động nhất định của con người phải vận dụng chúng.

* Mục đích lao động: Là kết quả mà xã hội đòi hỏi trông đợi ở người lao động. Nó thể hiện ở các công việc, thao tác chủ yếu phải hoạt động trong nghề và sản phẩm thu được trong nghề.

* Công cụ lao động: là những dụng cụ cụ thể gia công mà gồm những phương tiện nhằm tăng năng lực nhận thức của con người về các đặc điểm của đối tượng lao động, làm tăng sự tác động của con người đến đối tượng đó. Vì vậy, các công cụ đo lường, những máy móc để biến đổi năng lượng, xử lý thông tin cũng như các qui tắc, phương thức giải quyết các nhiệm vụ thực hành và lý luận được coi là công cụ lao động.

* Điều kiện lao động: được hiểu như là những đặc điểm của môi trường mà trong đó công việc, nghề nghiệp của con người được diễn ra. Đó là công việc được tiến hành trong nhà hay ngoài trời, trong điều kiện nhiệt độ hay tiếng ồn, độ ẩm, các chất độc hại, tư thế làm việc, ánh sáng phục vụ cho công việc,…

Như vậy, tất cả những nghề trong xã hội đều có các đặc điểm trên, chúng ta cần nắm rõ các đặc điểm của từng nghề để có thể phân loại nghề phù hợp và để cố vấn cho học sinh khi các em chọn nghề.

1.2.2.3. Phân loại nghề

Hiện nay thế giới nghề nghiệp rất đa dạng và phong phú. Trên thế giới có khoảng 65.00 nghề, còn ở Việt Nam có khoảng 400 nghề (Theo số liệu của Tổng cục thông kê tại QĐ số114/1998/QĐ-TCTK ngày 29-3-1998). Có rất nhiều cách phân loại

nghề, có thể phân loại nghề dựa theo mức độ phức tạp về kỹ thuật, theo kết quả cuối cùng của quá trình hành nghề, theo nhóm rộng và theo đặc điểm của hoạt động nghề, theo đối tượng lao động chủ yếu của nghề…

- Theo cách phân loại nghề dựa vào đối tượng lao động chủ yếu, Klimôv chia thành 5 nghề chính như sau:

+ Nhóm nghề người - người: Là loại nghề có đối tượng hành nghề của người lao động cũng là người, như nghề y, nghề nhà giáo, nghề cán bộ tổ chức, phục vụ khách sạn, bán hàng…

Với loại nghề này đòi hỏi người lao động phải có lòng nhân đạo, bác ái, biết sống vì mọi người. Ngoài ra còn phải nhạy cảm và có lòng kiên nhẫn đồng thời phải có khả năng giao tiếp trong mối quan hệ với đối tượng lao động của mình.

+ Nhóm nghề người - nghệ thuật: Bao gồm các nghề nhạc, hoạ, điêu khắc, nhà văn, nhà thơ,… Với loại nghề này, người lao động phải có óc thẩm mỹ, có cảm nhận tinh tế, tinh mắt, khéo tay, cần cù nhẫn nại, có khả năng phân tích, thể hiện và điều quan trọng là phải có tính sáng tạo.

- Nhóm nghề người - tự nhiên: Bao gồm các nghề trồng trọt, chăn nuôi,… Loại nghề này đòi hỏi người lao động phải yêu thiên nhiên, có cảm nhận tinh tế, nhạy bén trước sự thay đổi của tự nhiên.

+ Nhóm nghề người - kỹ thuật: Bao gồm các nghề kỹ sư, thợ điện, cơ khí, thợ rèn, sữa chữa, bảo trì, bảo dưỡng,… Loại nghề này đòi hỏi người lao động phải có tư duy kỹ thuật, có tác phong công nghiệp, tính nhạy cảm của các giác quan, hoạt bát, nhanh nhẹn, thao tác chuẩn xác và đặc biệt là phải có óc tiếp thu các thành tựu khoa học.

+ Nhóm nghề người - tín hiệu: Bao gồm các nghề kế toán, tin học, mật mã, bưu chính viễn thông… Loại nghề này đòi hỏi người lao động phải cẩn thận, tỉ mỉ, cần cù, có khả năng trừu tượng hoá, khả năng thuộc lòng các tính hiệu, quy trình.

- Dựa vào mục đích lao động: có 3 dạng

+ Nghề có mục đích nhận thức đối tượng: Thanh tra, toà án, quản lý, lãnh đạo, kiểm tra kho tàng,…

+ Nghề có mục đích biến đổi đối tượng: Thầy giáo, thầy thuốc, các loại thợ…

+ Nghề có mục đích tìm tòi, khám phá, phát hiện cái mới: Nghiên cứu khoa học, sáng tạo văn học nghệ thuật, tạo mốt,…

- Dựa vào công cụ lao động: có 4 loại

+ Nghề sử dụng các công cụ đơn giản, cầm tay như các nghề tiểu thủ công, các nghề dịch vụ, sửa chữa,…

+ Nghề sử dụng máy móc như tiện, phay, bào, điều khiển máy móc,…

+ Nghề sử dụng máy tự động: Các dây chuyền tự động, hệ thống ký hiệu tự động, hệ thống năng lượng,…

+ Nghề sử dụng các công cụ đặc biệt như ngôn ngữ, động tác: Nghề phiên dịch, nghề xiếc, múa, các huấn luyện viên thể dục, thể thao,…

- Dựa vào điều kiện lao động

+ Lao động trong điều kiện bình thường: Thủ quỹ, kế toán, phiên dịch,…

+ Lao động trong môi trường thiên nhiên khoáng đạt, khí hậu thời tiết thất thường: Nghề trồng trọt, lâm nghiệp, xây dựng, lái xe,…

+ Lao động trong điều kiện thất thường như trong lòng đất, dưới nước, trên cao, trong môi trường độc hại, nguy hiểm: Phi công, thợ lặn, thợ mỏ, nạo vét cống rãnh,…

+ Lao động trong môi trường đạo đức, chính trị với tinh thần trách nhiệm cao như quản lý Nhà nước, thầy giáo, thầy thuốc, toà án, điều tra hình sự,…

1.2.2.4. Nhận thức nghề nghiệp và con đường giúp các em nhận thức nghề

* Nhận thức về nghề nghiệp là quá trình phản ảnh các đặc trưng cơ bản của nghề, những yêu cầu của xã hội đối với nghề, những yêu cầu đòi hỏi về mặt tâm, sinh lý đối với người làm nghề đó và cũng là sự phản ánh các quá trình lao động trong lĩnh vực nghề nghiệp nhất định. Bao gồm:

- Sự nhận thức về nhu cầu của xã hội đối với nghề (hay là nhận thức về thị trường lao động của xã hội).

- Nhận thức về thế giới nghề nghiệp và những yêu cầu đặc trưng của nghề đối với người chọn nghề.

- Nhận thức về đặc điểm cá nhân

Dựa trên cơ sở nhận thức về nghề nghiệp, học sinh sẽ lựa chọn nghề nghiệp tương lai của mình.

* Các con đường giúp các em nhận thức nghề.

Căn cứ nguồn tiếp thu tri thức về nghề, có thể chia các con đường nhận thức về nghề của học sinh thành hai loại: Tự phát và tự giác.

- Nhận thức nghề tự phát: Những hiểu biết về nghề do học sinh thu lượm được trong cuộc sống, bằng các con đường khác nhau ngoài nhà trường có thể là qua các phương tiện thông tin đại chúng, từ bạn bè hay từ những hứng thú của các em. Những

hiểu biết của học sinh về nghề nghiệp qua con đường tự phát có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến quá trình chọn nghề của các em.

+ Hướng tích cực xảy ra khi các thông tin mà các em thu lượm được đúng đắn, sâu sắc, giúp các em chọn nghề phù hợp.

+ Hướng tiêu cực xảy ra khi các thông tin về nghề mà các em thu thập được không chính xác, không đúng với nghề, làm cho các em hiểu về nó quá mơ hồ dẫn đến sự lệch lạc khi chọn nghề, thậm chí sai lầm khi chọn nghề. Vì thế, các thông tin về nghề từ gia đình, bạn bè, thông tin đại chúng chỉ có giá trị hướng dẫn chọn nghề khi nó kết hợp với sự nhận thức nghề nghiệp một cách tự giác của bản thân học sinh, của hoạt động hướng nghiệp trong nhà trường và của trung tâm tư vấn nghề nghiệp.

- Nhận thức nghề tự giác có hệ thống: Là những tri thức mà học sinh thu lượm được thông qua quá trình học tập ở nhà trường, thông qua các buổi sinh hoạt ở trung tâm hướng nghiệp, thông qua tư vấn nghề và tự tìm tòi một cách tự giác, có chủ định của bản thân học sinh. Trong quá trình học tập ở nhà trường, thông qua các môn học, qua hoạt động ngoại khoá, thông qua sinh hoạt hướng nghiệp, học sinh hiểu thế giới nghề nghiệp phong phú hơn với nhiều ngành nghề, những chuyên môn cụ thể, những yêu cầu tâm, sinh lý của nghề, những dự đoán tương lai về nghề nghiệp, từ đó giúp các em biết được đặc điểm tâm, sinh lý của bản thân mình để lựa chọn được một nghề phù hợp.

1.2.3. Hướng nghiệp

Có nhiều cách hiểu khái niệm hướng nghiệp khác nhau với tiêu chí, mục tiêu quan sát và góc độ chuyên môn khác nhau.

Các nhà giáo dục cho rằng: “Hướng nghiệp là một hoạt động của các tập thể sư phạm, được tiến hành với mục đích giúp học sinh chọn nghề đúng đắn, phù hợp với năng lực, thể lực và tâm lý của cá nhân với nhu cầu kinh tế - xã hội. Hướng nghiệp là một bộ phận cấu thành của quá trình giáo dục - học tập trong nhà trường” [49, tr.34].

Các nhà tâm lý học coi hướng nghiệp là “Hệ thống các tâm lý sư phạm và y học giúp cho thế hệ trẻ chọn nghề có tính đến nhu cầu của xã hội và năng lực của bản thân” [27, tr.41].

Các nhà kinh tế thì coi hướng nghiệp là “Những mối quan hệ kinh tế giúp cho mỗi thành viên xã hội phát triển năng lực lao động và đưa họ vào lĩnh vực hoạt động cụ thể phù hợp với sự phân bổ lực lượng lao động xã hội” [40, tr.16].

Xem tất cả 113 trang.

Ngày đăng: 27/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí