Hoạt Động Giáo Dục Đạo Đức - Lối Sống Cho Đvtn

Minh. Tác giả đưa ra các giải pháp như: Đổi mới về nhận thức giáo dục đạo đức - lối sống; Đổi mới phương pháp giáo dục đạo đức - lối sống; Đổi mới hình thành tổ chức hoạt động giáo dục đạo đức - lối sống và xây dựng môi trường đạo đức - lối sống; Tăng cường những đảm bảo cơ sở vật chất giáo dục đạo đức - lối sống; lãnh đạo và quản lý công tác giáo dục đạo đức - lối sống trong nhà trường nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức - lối sống cho học sinh [3].

Luận án tiến sĩ : “Xây dựng mô hình quản lý công tác giáo dục đạo đức - lối sống cho sinh viên các trường ĐHSP trong giai đoạn hiện nay” của Nguyễn Thị Hoàng Anh (năm 2011) đã nghiên cứu lý luận, thực trạng và đề xuất các giải pháp quản lý công tác giáo dục đạo đức - lối sống cho sinh viên sư phạm trong các trường đại học sư phạm - Đại học sư phạm Huế, trường Đại học sư phạm - Đại học Đà Nẵng, trường Đại học Đồng Tháp nhằm đề xuất mô hình mới về quản lý công tác giáo dục đạo đức - lối sống cho sinh viên sư phạm và các giải pháp thực hiện mô hình [1].

Luận án tiến sĩ: “Quản lý giáo dục đạo đức - lối sống nghề nghiệp cho sinh viên trường cao đẳng sư phạm miền Đông Nam Bộ” của Nguyễn Thanh Phú (năm 2014) đã làm rõ thêm khái niệm đạo đức - lối sống, ý nghĩa , vai trò của quản lý giáo dục đạo đức - lối sống; xác định các yếu tố ảnh hưởng tới việc quản lý giáo dục đạo đức - lối sống nghề nghiệp cho sinh viên các trường cao đẳng sư phạm. Trong luận án, tác giả còn điều tra khảo sát ba trường cao 17 đẳng sư phạm tại khu vực miền Tây Nam Bộ và đề xuất một số giải pháp quản lý nhằm đổi mới và nâng cao kết quả giáo dục đạo đức - lối sống nghề nghiệp cho sinh viên các trường cao đẳng sư phạm, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên cho các trường sư phạm. Đó là những phạm trù phản ánh nội dung khách quan của đời sống xã hội, nó liên hệ hữu cơ với tình cảm con người trong mối quan hệ giữa con người với đời sống xã hội [19].

Như vậy, các công trình nêu trên đã có đóng góp nhất định trong việc nêu rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về yêu cầu của việc giáo dục đạo đức - lối sống và các tác động của bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tới sự biến đổi của đạo đức, giá trị đạo đức của nước ra trong quá trình đổi mới. Các công trình đã

đề cập đến các khía cạnh khác nhau của hoạt động giáo dục đạo đức lối sống cho học sinh ở nhà trường v.v. Những nghiên cứu đó đã cung cấp cơ sở khoa học lý luận và thực tiễn quan trọng cho việc tiếp tục nghiên cứu vấn đề này. Tuy nhiên, vấn đề quản lý hoạt động giáo dục đạo đức lối sống cho ĐVTN ở các trường THPT còn rất ít công trình đề cập đến. Do vậy chúng tôi nhận thấy đây là vấn đề cần phải tiếp tục được quan tâm, nghiên cứu.

1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài

1.2.1. Quản lý

Có nhiều quan niệm và cách hiểu khác nhau về quản lý:

H. Koontz cho rằng: Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo những phối hợp nỗ lực hoạt động cá nhân nhằm đạt được các mục đích của tổ chức. Như vậy, với Koontz, quản lý là một hoạt động phối hợp các cá nhân, các lực lượng để thực hiện mục tiêu đề ra của tổ chức [16].

Theo Annapu FF, quản lý là một hệ thống xã hội, là một khoa học, một nghệ thuật tác động vào một hệ thống xã hội, chủ yếu là quản lý con người nhằm đạt được những mục tiêu xác định. Hệ thống đó vừa tĩnh vừa ổn định, bao gồm nhiều thành phần có tác động qua lại với nhau [16].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 135 trang tài liệu này.

Theo các tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc, hoạt động quản lý là hoạt động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) tron một tổ chức làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức [6, tr.15].

Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý là tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến những người lao động (khách thể quản lý) nhằm thực hiện những mục tiêu dự kiến17.

Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức - lối sống cho đoàn viên thanh niên ở các trường trung học phổ thông thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên - 3

Từ những quan niệm trên chúng tôi thấy, ở những góc độ khác nhau có nhiều quan niệm khác nhau về quản lý, quan niệm này phụ thuộc vào cái nhìn chủ quan và tính mục đích hoạt động của hệ thống. Nhưng chúng ta có thể hiểu một cách khái quát là: Quản lý một đơn vị (cơ sở sản xuất, cơ quan, trường học, xí nghiệp…) với tư cách là một hệ thống xã hội là khoa học và nghệ thuật tác động vào hệ thống, vào

trong thành tố của hệ thống bằng phương pháp thích hợp nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Tuy có các cách tiếp nhận khác nhau nhưng trong quá trình nghiên cứu tác giả thấy khái niệm quản lý bao hàm một số ý nghĩa chung đó là:

- Quản lý là các hoạt động để đảm bảo mục đích chung là hoàn thành công việc qua nỗ lực của các cá thể trong tổ chức. Đối tượng tác động của quản lý là một hệ thống xã hội hoàn chỉnh như một cơ thể sống gồm nhiều yếu tố liên kết hữu cơ theo một quy luật nhất định tồn tại trong thời gian, không gian cụ thể.

- Mục tiêu cuối của quản lý là chất lượng sản phẩm vì lợi ích phục vụ con người. Người quản lý tựu trung lại là nghiên cứu khoa học nghệ thuật giải quyết các mối quan hệ giữa con người với nhau vô cùng phức tạp không chỉ giữa chủ thể và khách thể trong hệ thống mà còn trong mối quan hệ tương tác với các hệ thống khác nhằm hướng đến mục tiêu chung của tổ chức mình.

Như vậy, bản chất của quản lý là một loại lao động để điều khiển lao động. Đó là quá trình tác động có định hướng của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả các tiềm năng, các cơ hội của tổ chức để đặt ra trong điều kiện biến động của môi trường. Xã hội ngày càng phát triển các loại hình lao động ngày càng phong phú, phức tạp, tinh vi thì hoạt động quản lý càng có vai trò quan trọng và quyết định để tổ chức hướng tới đích bằng con đường ngắn nhất, hiệu quả nhất. Với bản chất là một khoa học và nghệ thuật trong việc điều khiển và phối hợp sự nỗ lực của con người vì mục tiêu chung. Trong xã hội hiện đại, tính khoa học và nghệ thuật của quản lý được đề cao.

Kế thừa những quan niệm nêu trên về quản lý, chúng ta có thể hiểu: Quản lý là sự tác động có ý thức, có tính hướng đích của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đã đề ra.

1.2.2. Đạo đức - lối sống

* Đạo đức:

Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những quy tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội nhờ đó mà con người tự điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người và tiến bộ xã hội trong quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân với xã hội.

Trong Từ điển tiếng Việt của tác giả Hoàng Phê, khái niệm đạo đức được định nghĩa như sau: Đạo đức là “1. Những tiêu chuẩn, nguyên tắc được dư luận xã hội thừa nhận, quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội; 2. Phẩm chất tốt đẹp của con người do tu dưỡng theo những tiêu chuẩn đạo đức mà có” [18, tr.365].

Theo giáo sư Phạm Minh Hạc, “Đạo đức, theo nghĩa hẹp là những luân lý, những quy định, những chuẩn mực ứng xử trong quan hệ của con người. Nhưng trong điều kiện hiện nay, chính quan hệ của con người cũng đã mở rộng đạo đức bao gồm những quy định, những chuẩn mực ứng xử của con người với con người, với công việc và với bản thân, kể cả với thiên nhiên và môi trường sống” [12, tr.35].

Theo Phạm Khắc Chương “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội phản ánh những tồn tại xã hội, phản ánh những quan hệ xã hội thực hiện trên cơ sở kinh tế. Sự phát triển của đạo đức xã hội từ thấp đến cao như những nấc thang giá trị của văn minh con người, trên cơ sở phát triển của sức sản xuất và thông qua đấu tranh, gạn lọc, kế thừa mà nội dung đạo đức ngày càng phong phú và hoàn thiện hơn” [7, tr.25].

Mặc dù có nhiều cách định nghĩa khác nhau về đạo đức, song có thể khái quát như sau: Đạo đức là hệ thống các quy tắc, chuẩn mực xã hội mà nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi, phương thức ứng xử của bản thân cho phù hợp với lơi ích của cộng đồng và xã hội.

* Lối sống:

Theo từ điển Tiếng Việt, lối sống được hiểu là: “những nét điển hình, được lặp đi lặp lại và định hình thành phong cách, thói quen trong đời sống cá nhân, nhóm xã hội, dân tộc, hay là cả một nền văn hóa. Lối sống cá nhân được đặc trưng bởi cái nhìn về thực tại, cá tính, bản sắc cá nhân cũng như những ảnh hưởng bởi môi trường xung quanh như gia đình, nơi sinh sống, giáo dục, văn hóa và đặc biệt là truyền thông [18, tr.734].

Lối sống của con người là các chiều cạnh chủ quan của văn hóa, là quá trình hiện thực hóa các giá trị văn hóa thông qua hoạt động sống của con người.

Lối sống bao gồm tất cả những hoạt động sống và phương thức tiến hành các hoạt động sống được một bộ phận lớn hoặc toàn thể nhóm hay cộng đồng người chấp nhận và thực hành trong một khoảng thời gian tương đối ổn định, đặt trong mối tương tác biện chứng của các điều kiện sống hiện hữu và trong các mối liên hệ lịch sử của chúng.

Nói khác đi, lối sống chứa đựng các giá trị văn hóa, bao gồm các khuôn mẫu ứng xử, các giá trị xã hội thể hiện trong toàn bộ các hoạt động sống của dân tộc, các nhóm xã hội, các cá nhân và phản ánh tổng hợp tất cả các cấu trúc, nền văn hóa, đặc trưng văn hóa của con người hay cộng đồng trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.

Lối sống thể hiện tồn tại và đặc điểm của từng giai đoạn lịch sử, do đó, bên cạnh tính phổ quát, lối sống còn thể hiện tính riêng, đặc thù của từng dân tộc, từng địa bàn dân cư.

Từ những điểm phân tích nêu trên có thể hiểu: Lối sống là những nét điển hình được lặp đi lặp lại và định hình thành phong cách, thói quen trong đời sống cá nhân hay nhóm xã hội.

* Đạo đức - lối sống:

Từ hai khái niệm đạo đức, lối sống đã nêu ở trên, có thể hiểu: Đạo đức - lối sống là toàn bộ những quy tắc, chuẩn mực xã hội có tác dụng điều chỉnh mọi hành vi, phương thức ứng xử đã trở thành thói quen của con người trong cuộc sống.

1.2.3. Hoạt động giáo dục đạo đức - lối sống cho ĐVTN

1.2.3.1. Hoạt động giáo dục

* Giáo dục:

Theo nghĩa rộng, giáo dục là sự hình thành nhân cách được tổ chức một cách có mục đích, có tổ chức thông qua các hoạt động và các quan hệ giữa nhà giáo dục và người được giáo dục nhằm giúp người được giáo dục chiếm lĩnh kinh nghiệm của xã hội loài người.

Theo nghĩa hẹp, giáo dục là quá trình hình thành những cơ sở khoa học của thế giới quan, niềm tin, lý tưởng, động cơ, tình cảm, thái độ, tính cách, hành vi, thói quen cư xử đúng đắn trong xã hội.

Giáo dục được xem như một hoạt động - hoạt động giáo dục. Hoạt động giáo dục trong nhà trường diễn ra với những nội dung, phương pháp, hình thức cụ thể trong những điều kiện nhất định.

* Hoạt động giáo dục:

Từ những phân tích nêu trên, có thể hiểu: Hoạt động giáo dục (theo nghĩa hẹp) là quá trình tác động của nhà giáo dục đến đối tượng giáo dục, giúp đối tượng giáo dục có nhận thức đúng về các chuẩn mực đạo đức xã hội, từ đó có hành vi, thói quen ứng xử phù hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội đó.

Hoạt động giáo dục chỉ có hiệu quả khi được thực hiện trên cơ sở vừa tác động đến nhận thức, vừa tác động đến tình cảm và hành vi của ĐVTN.

1.2.3.2. Hoạt động giáo dục đạo đức - lối sống cho ĐVTN

Từ các khái niệm: hoạt động giáo dục, đạo đức - lối sống đã nêu ở trên, có thể hiểu: Hoạt động giáo dục đạo đức - lối sống cho ĐVTN là quá trình tác động của nhà giáo dục đến ĐVTN nhằm biến các chuẩn mực đạo đức- lối sống từ những đòi hỏi bên ngoài của xã hội thành những đòi hỏi bên trong của mỗi ĐVTN, thành niềm tin, nhu cầu, thói quen của ĐVTN.

Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, hoạt động giáo dục đạo đức - lối sống bao gồm các nội dung: Giáo dục thế giới quan, nhân sinh quan; giáo dục tư tưởng chính trị và giáo dục các phẩm chất đạo đức cho ĐVTN.

Các hoạt động giáo dục đạo đức - lối sống có thể tiến hành trong nhà trường, tại gia đình hay tại cộng đồng; hoặc phối hợp, tích hợp từ các tác động từ các chủ thể khác nhau, không chỉ nhằm mục đích các giá trị đạo đức - lối sống cho thế hệ trẻ, mà còn góp phần định hướng và hình thành lối sống mới cho họ.

Chính vì thế, các hoạt động giáo dục đạo đức - lối sống nói chung, hoạt động giáo dục đạo đức - lối sống trong nhà trường nói riêng luôn gắn chặt với các mục tiêu và nội dung giáo dục tư tưởng - chính trị, giáo dục pháp luật, giáo dục trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và lao động, hướng nghiệp và thường được kết hợp giữa nhà trường - gia đình - cộng đồng.

1.2.4. Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức - lối sống cho ĐVTN

Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức - lối sống cho ĐVTN là hoạt động của nhà quản lý nhằm tập hợp và tổ chức các lực lượng giáo dục, huy động tối đa các nguồn lực xã hội để giáo dục đạo đức - lối sống cho ĐVTN.

Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức - lối sống chính là công việc của nhà trường mà người quản lý trường học thực hiện các chức năng quản lý tổ chức công tác giáo dục đạo đức - lối sống. Đó chính là những hoạt động có ý thức, có kế hoạch và hướng đích của chủ thể quản lý nhằm trang bị cho học sinh những giá trị đạo đức - lối sống phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, trình độ học vấn và bối cảnh sống của các em.

Từ các khái niệm: quản lý, hoạt động giáo dục đạo đức - lối sống cho học sinh đã nêu ở trên, có thể hiểu: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức - lối sống cho ĐVTN là sự tác động có mục đích, có phương pháp của chủ thể quản lý đến hoạt động giáo dục đạo đức - lối sống cho ĐVTN, giúp cho hoạt động này diễn ra có hiệu quả, đạt được mục tiêu của quá trình quản lý.

1.3. Hoạt động giáo dục đạo đức - lối sống cho ĐVTN ở trường THPT

1.3.1. Tầm quan trọng của hoạt động giáo dục đạo đức - lối sống cho ĐVTN ở các trường THPT

Vấn đề giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức - lối sống cho thế hệ trẻ luôn được Đảng, Nhà nước, gia đình, nhà trường và toàn xã hội quan tâm. Những năm qua, nhiều nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác thanh niên và giáo dục thế hệ trẻ đã được triển khai, đạt nhiều kết quả. Hệ thống pháp luật, công tác quản lý nhà nước về thanh thiếu nhi ngày càng được hoàn thiện. Giáo dục về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức - lối sống cho thế hệ trẻ không ngừng được tăng cường và đổi mới. Thông qua các hoạt động giáo dục, các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước đã tạo môi trường lành mạnh để thế hệ trẻ rèn luyện, trưởng thành, góp phần hình thành lý tưởng cách mạng, đạo đức - lối sống cao đẹp, lối sống nghĩa tình, tuân thủ pháp luật, từng bước hoàn thiện nhân cách.

- Trang bị cho ĐVTN ở các trường THPT những tri thức cơ bản về đạo đức

- lối sống, các yêu cầu biểu thị dưới dạng các chuẩn mực về đạo đức - lối sống,

các quy tắc về đạo đức - lối sống, các khái niệm về đạo đức - lối sống... để giúp cho ĐVTN ý thức được ý nghĩa, tính đúng đắn, giá trị của các hành vi đạo đức - lối sống phù hợp với các yêu cầu để ứng xử đúng đắn trong các tình huống đạo đức - lối sống.

- Hình thành ở ĐVTN niềm tin và thái độ tích cực đối với các chuẩn mực về đạo đức - lối sống, từ đó hình thành ở các em động cơ đạo đức, tính sẵn sang đối với hành động có đạo đức và thói quen tích cực trong cuộc sống.

- Hình thành ở ĐVTN những hành vi, thói quen tốt về mặt đạo đức - lối sống thông qua việc tổ chức cho các em tập dượt trong các hoạt động (học tập, lao động, công tác xã hội, sinh hoạt tập thể, ...). Thói quen, hành vi về đạo đức - lối sống chỉ được hình thành và trở nên bền vững thông qua hoạt động, mối quan hệ đa dạng của ĐVTN ở với những người khác.

Như vậy, hoạt động giáo dục đạo đức - lối sống cho ĐVTN ở các trường THPT có tầm quan trọng đặc biệt trong việc tác động trực tiếp đến học sinh để hình thành ý thức tình cảm và niềm tin đạo đức - lối sống, tạo lập được những thói quen hành vi đạo đức - lối sống cho ĐVTN.

1.3.2. Nội dung của hoạt động giáo dục đạo đức - lối sống cho ĐVTN ở trường THPT

Nội dung của hoạt động giáo dục đạo đức - lối sống cho ĐVTN bao gồm các vấn đề cơ bản như: Giáo dục về tư tưởng chính trị, giáo dục về phẩm chất đạo đức, giáo dục về lối sống đẹp.

* Giáo dục về tư tưởng, chính trị:

- Giáo dục thế giới quan khoa học, giáo dục lòng yêu nước, có ý thức thực hiện đường lối chủ trương của Đảng, pháp luật của nhà nước, lòng yêu thương, nhân ái, lòng tự hào dân tộc, niềm tin vào chế độ chủ nghĩa xã hội, có hoài bão, có lối sống lành mạnh. Giáo dục thái độ tích cực tham gia các hoạt động chính trị, xã hội, phân biệt, đánh giá các sự kiện chính trị, xã hội; nhận biết và phê phán những âm mưu, thủ đoạn chính trị của các thế lực thù địch. Giáo dục lòng nhân ái, bao dung, độ lượng, biết trân trọng các giá trị dân tộc, xác định trách nhiệm, nghĩa vụ của bản thân, tư cách, tác phong đúng đắn của người công dân.

Xem tất cả 135 trang.

Ngày đăng: 26/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí