Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Môn Công Nghệ Theo Tiếp Cận Năng Lực

xuất 5 biện pháp quản lí hoạt động dạy học nghề theo hướng tiếp cận năng lực thực hiện của học viên tại Trung tâm GDTX Yên Lập, tỉnh Phú Thọ.

Phan Tuấn Dũng (2018), “Quản lý dạy học môn Tiếng anh theo tiếp cận năng lực ở các trường THPT thị xã Quảng yên - tỉnh Quảng Ninh”. Tác giả đã phân tích thực trạng và đề xuất 6 biện pháp quản lý dạy học môn Tiếng Anh theo tiếp cận năng lực ở các trường THPT Thị xã Quảng Yên - Tỉnh Quảng Ninh.

* Đánh giá chung

Tổng quan các nghiên cứu về công trình nghiên cứu các vấn đề dạy học theo TCNL và quản lý dạy học theo TCNL trên thế giới và tại Việt Nam, tôi nhận thấy công trình nghiên cứu của mỗi tác giả đều đề cập đến các nội dung nghiên cứu về năng lực, tầm quan trọng, ý nghĩa của việc quản lý hoạt động dạy học theo TCNL. Các công trình nghiên cứu trên đều đạt được những thành tựu nhất định về lý luận cũng như thực tiễn và việc áp kết quả nghiên cứu sẽ còn phụ thuộc phần lớn vào điều kiện thực tế của các nhà trường. Tuy nhiên, vấn đề quản lí hoạt động dạy môn Công nghệ theo TCNL ở trường THPT thì chưa có tác giả nào nghiên cứu. Do đó, tác giả mạnh dạn nghiên cứu vấn đề “Quản lí hoạt động dạy học môn Công nghệ theo tiếp cận năng lực ở trường

trung học phổ thông huyện Phú Bình - tỉnh Thái Nguyên” với mong muốn tìm ra những biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động dạy học môn Công nghệ tại trường THPT Điềm Thụy nói riêng và các trường THPT huyện Phú Bình nói chung đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực hiện nay.

1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài

1.2.1. Quản lý

Quản lý là một thuật ngữ phổ biến trong xã hội. Mọi hoạt động của tổ chức, xã hội đều cần tới quản lý. Quản lý diễn ra trong mọi lĩnh vực, mọi cấp độ và liên quan đến mọi người. Quản lý trở thành một khoa học, một nghệ thuật và là một nghề trong xã hội hiện đại.

Quản lý là một hoạt động mang tính lịch sử xã hội, nhờ có hoạt động quản lý mà xã hội loài người không ngừng vận động và phát triển. Quản lý hoạt động dạy học là những tác động có mục đích, có kế hoạch của Hiệu trưởng đến tập thể giáo viên, học sinh, những lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường nhằm huy động

họ tham gia, cộng tác, phối hợp các hoạt động của nhà trường, giúp quá trình dạy học vận động tối ưu tới mục tiêu dự kiến.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 139 trang tài liệu này.

Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam “Quản lý là chức năng và hoạt động của hệ thống có tổ chức thuộc các giới khác nhau (sinh học, kỹ thuật, xã hội), bảo đảm giữ gìn một cơ cấu ổn định nhất định, duy trì sự hoạt động tối ưu và bảo đảm thực hiện những chương trình và mục tiêu của hệ thống đó” [43].

Theo tác giả Hà Thế Truyền “Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được mục đích của nhóm. Mục tiêu của nhà quản lý là hình thành một môi trường mà con người có thể đạt được các mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn ít nhất. Với tư cách thực hành thì quản lý là một nghệ thuật, còn với kiến thức thì quản lý là một khoa học” [21].

Quản lý hoạt động dạy học môn công nghệ theo tiếp cận năng lực ở trường trung học phổ thông huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên - 4

Hiểu một cách chung nhất, theo chúng tôi thì “Quản lý là một quá trình tác động có định hướng, có tổ chức, có kế hoạch và hệ thống của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý dựa trên những thông tin về tình trạng của đối tượng hình thành một môi trường phát huy một cách hiệu quả các tiềm năng, các cơ hội của cá nhân và tổ chức để đạt được mục tiêu đã đề ra”.

1.2.2. Hoạt động dạy học

Tiếp cận từ góc độ giáo dục học theo tác giả Đặng Xuân Hải và Nguyễn Sỹ Thư thì “Dạy học là một trong các bộ phận của quá trình tổng thể giáo dục nhân cách toàn vẹn - là quá trình tác động qua lại giữa giáo viên - học sinh nhằm truyền thụ và lĩnh hội tri thức khoa học, những kĩ năng và kĩ xảo hoạt động nhận thức và thực tiễn, để trên cơ sở đó hình thành thế giới quan, phát triển năng lực sáng tạo và xây dựng phát triển các phẩm chất nhân cách người học theo mục đích giáo dục” [16]. Theo quan niệm này, dạy học là khái niệm chỉ quá trình hoạt động chung của người dạy và người học.

Tiếp cận từ góc độ tâm lý học theo tác giả Thái Duy Tuyên thì dạy học được hiểu là “Sự biến đổi hợp lý hoạt động và hành vi của người học trên cơ sở cộng tác hoạt động và hành vi của người dạy và người học” [44].

Theo tác giả Hà Thế Truyền thì “Dạy học là một quá trình thống nhất biện chứng của hai thành tố cơ bản trong quá trình dạy học - hoạt động dạy và hoạt

động học”. Dạy và học là hai hoạt động tác động và phối hợp với nhau, nếu thiếu một trong hai hoạt động đó thì quá trình dạy học không diễn ra [21].

Như vậy “hoạt động dạy học là một quá trình thầy thiết kế các hoạt động dạy và định hướng các hoạt động học thông qua nghiệp vụ sư phạm của mình, trò với hoạt động học (tự giác, tích cực, chủ động) thông qua định hướng, hướng dẫn của thầy nhằm đạt tới mục đích dạy học là hình thành nhân cách cho học sinh”.

1.2.3. Quản lý hoạt động dạy học

Theo tác giả Nguyễn Quang Uẩn “Quản lý quá trình dạy học là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý trong quá trình dạy học nhằm đạt được mục tiêu đề ra” [32].

Quản lý hoạt động dạy học là phải tổ chức thực hiện tốt các nhiệm vụ cơ bản là: (1) Quản lý việc thực hiện mục tiêu dạy học; (2) Quản lý việc thực hiện nội dung dạy học; (3) Quản lý hoạt động dạy của thầy; (4) Quản lý hoạt động học của trò; (5) Quản lý CSVC, PTDH, các điều kiện phục vụ dạy học; (6) Tổ chức kiểm tra, đánh giá kết quả dạy và học.

Vậy có thể hiểu quản lý hoạt động dạy học: Là những tác động có mục đích, có kế hoạch của Hiệu trưởng đến tập thể giáo viên, học sinh, những lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường nhằm huy động họ tham gia, cộng tác, phối hợp các hoạt động của nhà trường, giúp quá trình dạy học vận động tối ưu tới mục tiêu dự kiến.

1.2.4. Năng lực, dạy học theo tiếp cận năng lực

1.2.3.1. Năng lực

Theo Xavie Rogiers: “Năng lực là một tập hợp hoặc tổng hợp những thuộc tính của cá nhân con người, đáp ứng những yêu cầu của hoạt động và đảm bảo cho hoạt động đạt được những kết quả cao” [48, tr.637].

Tác giả Thái Duy Tuyên cho rằng: “Năng lực là những đặc điểm tâm lý của nhân cách, là điều kiện chủ quan để thực hiện có kết quả một dạng hoạt động nhất định. Năng lực có liên quan với kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo. Năng lực thể hiện ở tốc độ, chiều sâu, tính bền vững và phạm vi ảnh hưởng của kết quả hoạt động, ở tính sáng tạo, tính độc đáo của phương pháp hoạt động” [44, tr.22].

Theo Nguyễn Cảnh Toàn: “Năng lực là những thuộc tính tâm lý của cá nhân giúp cho việc con người lĩnh hội một lĩnh vực kiến thức hoạt động nào đó được dễ dàng và nếu họ tiến hành hoạt động trong lĩnh vực đó thì sẽ có kết quả cao” [35, tr.31].

Nhìn chung năng lực được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau nhưng đều có điểm chung và coi năng lực là sự tích hợp kiến thức, kỹ năng, thái độ và tham chiếu chúng trong một bối cảnh công việc hoặc tình huống công việc nào đó.

Chúng ta có thể hiểu năng lực là: thuộc tính cá nhân được hình thành, phát triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện, cho phép con người huy động tổng hợp các kiến thức, kỹ năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí,... thực hiện thành công một loại hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể.

1.2.3.2. Tiếp cận năng lực

Trong khoa học giáo dục, khi xây dựng chương trình môn học thường có hai cách tiếp cận sau: Thứ nhất là tiếp cận dựa vào nội dung (mục tiêu - nội dung kiến thức); thứ hai là tiếp cận dựa vào kết quả đầu ra (mục tiêu - năng lực thực hiện).

Tiếp cận nội dung: là cách nêu ra một danh mục đề tài, chủ đề của một lĩnh vực (môn học) nào đó. Tức là tập trung xác định và trả lời câu hỏi: chúng ta muốn học sinh cần biết cái gì? Cách tiếp cận này chủ yếu dựa vào yêu cầu nội dung học vấn của một khoa học bộ môn nên thường mang tính “hàn lâm”, nặng về lý thuyết và tính hệ thống, nhất là khi người thiết kế ít chú ý đến tiềm năng, các giai đoạn phát triển, nhu cầu, hứng thú và điều kiện của người học.

Tiếp cận kết quả đầu ra: “là cách tiếp cận nêu rõ kết quả - những khả năng hoặc kĩ năng mà học sinh mong muốn đạt được vào cuối mỗi giai đoạn học tập trong nhà trường ở một môn học cụ thể”. Nói cách khác, cách tiếp cận này nhằm trả lời câu hỏi: Chúng ta muốn học sinh biết và có thể làm được những gì?

Nội dung dạy học theo quan điểm TCNL không chỉ giới hạn trong tri thức và kỹ năng chuyên môn mà gồm những nhóm nội dung nhằm phát triển các lĩnh vực năng lực bao gồm năng lực chuyên môn, năng lực phương pháp, năng lực xã hội và năng lực nhân cách.

Phương pháp dạy học theo quan điểm TCNL không chỉ chú ý tích cực hoá học sinh về hoạt động trí tuệ mà còn chú ý rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề gắn

với những tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp, đồng thời gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành, thực tiễn. Tăng cường việc học tập trong nhóm, đổi mới quan hệ giáo viên - học sinh theo hướng cộng tác có ý nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội. Bên cạnh việc học tập những tri thức và kỹ năng riêng lẻ của các môn học chuyên môn cần bổ sung các chủ đề học tập phức hợp nhằm phát triển năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp.

Tiếp cận năng lực được hiểu là: Nghiên cứu và vận dụng có mức độ một số lý luận về dạy học theo năng lực như triết lý, nguyên tắc và một số nội dung thích hợp của dạy học theo năng lực vào dạy học.

1.2.3.3. Dạy học theo tiếp cận năng lực

Dạy học theo TCNL là dạy học nhằm mục tiêu tiếp cận và phát triển năng lực của người học, phát triển toàn diêṇphẩm chất, nhân cách, chú trọng năng lực vận dụng kiến thức vào tình huống thực tế, chuẩn bị cho người học năng lực giải quyết các tình huống của nghề nghiệp và cuộc sống.

Như vậy, dạy học theo TCNL người học chính là việc giáo viên phải có phương pháp dạy học theo hướng tích cực, lấy người học làm trung tâm, phải khơi gợi được niềm đam mê của người học và đặc biệt phải tạo điều kiện “học đi đôi với hành” để người học vận dụng kiến thức, kỹ năng, thái độ mà mình lĩnh hội được vào giải quyết các tình huống thực tiễn. Và để thực hiện điều này, mỗi cơ sở đào tạo cần nhanh chóng thoát khỏi mô hình giáo dục truyền thống, chuyển từ việc trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực người học. Nghĩa là phải thay đổi quan điểm, mục tiêu dạy học: Từ chỗ chỉ quan tâm tới việc người học học được gì đến chỗ quan tâm tới việc người học làm được cái gì qua việc học.

Dạy học theo TCNL trong dạy học Công nghệ ở trường THPT là người dạy nghiên cứu và vận dụng các lý luận về dạy học theo năng lực như là một triết lý, nguyên tắc để tổ chức dạy học môn Công nghệ với mong muốn hình thành phát triển năng lực người học theo chuẩn kiến thức, kỹ năng, thái độ và năng lực cần đạt đã xác định. Đối với dạy học môn Công nghệ theo TCNL thì người giáo viên ngoài việc dựa vào việc phát triển năng lực chung thì còn phải dựa vào việc phát triển năng lực Công nghệ cho học sinh.

1.2.5. Môn công nghệ ở trường phổ thông

Theo tác giả Nguyễn Công Khanh: Môn công nghệ là môn học bắt buộc trong giai đoạn giáo dục cơ bản, là môn học lựa chọn, thuộc nhóm môn Công nghệ và Nghệ thuật (Công nghệ, Tin học, Nghệ thuật) trong giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp [42].

Nội dung giáo dục công nghệ rộng, đa dạng, thuộc nhiều lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ khác nhau. Trong dạy học Công nghệ, có những nội dung cơ bản, cốt lõi, phổ thông tất cả học sinh đều phải học. Bên cạnh đó, có những nội dung đặc thù, chuyên biệt nhằm đáp ứng nguyện vọng, sở thích của học sinh, phù hợp với yêu cầu của từng địa phương, vùng miền.

Trong chương trình giáo dục phổ thông mới, môn công nghệ phổ thông có những giá trị, tính chất nổi bật:

- Giáo dục công nghệ giúp học sinh học tập và làm việc hiệu quả trong môi trường công nghệ tại gia đình, cộng đồng và xã hội.

- Giáo dục công nghệ thúc đẩy giáo dục STEM, có ưu thế hình thành và phát triển năng lực giải quyết vấn đề và sang tạo, thiết kế.

- Giáo dục công nghệ là một trong những con đường chủ yếu thực hiện giáo dục hướng nghiệp cho học sinh phổ thông, đặc biệt là hướng nghiệp và phân luồng trong lĩnh vực nghề về kỹ thuật , công nghệ.

- Giáo dục công nghệ chuẩn bị cho học sinh tri thức nền tảng để lựa chọn nghề hay tiếp tục theo học các ngành kỹ thuật, công nghệ.

Công nghệ là tri thức có hệ thống về quy trình và kĩ thuật dùng để chế biến vật liệu và thông tin, bao gồm kiến thức, thiết bị, phương pháp và các hệ thống dùng trong việc tạo ra hàng hoá và cung cấp dịch vụ. Trong mối quan hệ giữa khoa học và công nghệ thì khoa học hướng tới khám phá, tìm hiểu, giải thích thế giới; còn công nghệ, dựa trên những thành tựu của khoa học, tạo ra các sản phẩm, dịch vụ công nghệ để giải quyết các vấn đề đặt ra trong thực tiễn, cải tạo thế giới, định hình môi trường sống của con người. Công nghệ là môn học bắt buộc trong giai đoạn giáo dục cơ bản; Là môn học lựa chọn, thuộc nhóm môn Công nghệ và Nghệ thuật (Công nghệ, Tin học, Nghệ thuật) trong giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp. Nội dung giáo dục công nghệ rộng, đa dạng, thuộc nhiều lĩnh vực kĩ thuật, công nghệ khác nhau. Trong dạy học công nghệ, có những nội dung cơ bản, cốt lõi, phổ

thông tất cả học sinh đều phải học. Bên cạnh đó, có những nội dung có tính đặc thù, chuyên biệt nhằm đáp ứng nguyện vọng, sở thích của học sinh, phù hợp với yêu cầu của từng địa phương, vùng miền. Sự đa dạng về lĩnh vực kĩ thuật, công nghệ trong nội dung môn Công nghệ cũng mang lại ưu thế của môn học trong việc lồng ghép, tích hợp nội dung giáo dục hướng nghiệp trong môn học thông qua các chủ đề về lựa chọn nghề nghiệp; các nội dung giới thiệu về ngành nghề chủ yếu thuộc các lĩnh vực sản xuất môn Công nghệ đề cập; các hoạt động trải nghiệm nghề nghiệp qua các mô-đun kĩ thuật, công nghệ tự chọn. Cũng như các lĩnh vực giáo dục khác, giáo dục công nghệ có trách nhiệm hình thành và phát triển các năng lực chung cốt lõi, các phẩm chất chủ yếu đã được đề cập trong Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể. Với việc coi trọng phát triển tư duy thiết kế, giáo dục công nghệ có ưu thế trong hình thành và phát triển năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo. Môn Công nghệ ở trường phổ thông có mối quan hệ với nhiều lĩnh vực giáo dục khác, đặc biệt là với Toán học và Khoa học. Cùng với Toán học, Khoa học tự nhiên, Tin học, môn Công nghệ góp phần thúc đẩy giáo dục STEM ở phổ thông - một trong những xu hướng giáo dục đang được coi trọng ở nhiều quốc gia trên thế giới [42].

Ở đây tác giả đề cập và nghiên cứu dạy học theo TCNL môn Công nghệ công nghiệp ở trường phổ thông (lớp 11 và 12).

1.2.6. Quản lý hoạt động dạy học môn Công nghệ theo tiếp cận năng lực

Quản lý hoạt động dạy học thực chất là những tác động của chủ thể quản lý vào quá trình dạy học (được tiến hành bởi tập thể giáo viên và học sinh, với sự hỗ trợ đắc lực của các lực lượng xã hội) nhằm góp phần hình thành và phát triển toàn diện nhân cách học sinh theo mục tiêu đào tạo của nhà trường. Quản lý dạy học giữ vị trí quan trọng trong công tác quản lý nhà trường. Mục tiêu quản lý chất lượng đào tạo là nền tảng, là cơ sở để nhà quản lý xác định các mục tiêu quản lý khác trong hệ thống mục tiêu quản lý của nhà trường.

Quản lý hoạt động dạy học là nhiệm vụ trọng tâm của người hiệu trưởng. Xuất phát từ vị trí quan trọng của hoạt động dạy học, người hiệu trưởng thông qua các khâu: Lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, chỉ đạo thực hiện và kiểm tra đánh giá thực hiện hoạt động. Người hiệu trưởng dành nhiều thời gian và công sức cho công

tác quản lý hoạt động dạy học nhằm ngày càng nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội.

Dạy học TCNL về bản chất là cần và coi trọng thực hiện mục tiêu dạy học hiện tại ở các mức độ cao hơn, thông qua việc yêu cầu học sinh vận dụng những kiến thức, kĩ năng một cách tự tin, hiệu quả và thích hợp trong hoàn cảnh phức hợp và có biến đổi, trong học tập cả trong nhà trường và ngoài nhà trường, trong đời sống thực tiễn.

Với dạy học theo TCNL, thay vì chỉ dừng ở hướng tới mục tiêu dạy học hình thành kiến thức, kĩ năng và thái độ tích cực ở học sinh thì còn hướng tới mục tiêu xa hơn đó là trên cơ sở kiến thức, kĩ năng được hình thành, phát triển khả năng thực hiện các hành động có ý nghĩa đối với người học. Nói một cách khác việc dạy học tiếp cận năng lực về bản chất không thay thế mà chỉ mở rộng hoạt động dạy học hướng nội dung bằng cách tạo một môi trường, bối cảnh cụ thể để học sinh được thực hiện các hoạt động vận dụng kiến thức, sử dụng kĩ năng và thể hiện thái độ cá nhân.

Quản lý dạy học theo hướng TCNL là quản lý các hoạt động giáo dục diễn ra ở trường nhằm thực hiện mục tiêu dạy học nâng cao chất lượng các môn học; là quản lý việc chấp hành những quy định, quy chế về hoạt động giảng dạy của giáo viên và hoạt động học tập của học sinh ở nhà trường THPT. Quản lý dạy học theo TCNL cũng quản lý theo các chức năng quản lý đã nói ở trên, đặc biệt chú ý đến tiếp cận và phát huy năng lực học sinh, rèn luyện kỹ năng, học sinh biết vận dụng tri thức vào đười sống. Người quản lý và giáo viên phải chú ý đến kết quả đầu ra - năng lực học sinh đạt được trong quá trình dạy học.

Quản lý dạy học Công nghệ theo TCNL là quá trình chủ thể quản lý nhà trường lấy Chuẩn năng lực cần đạt được ở học sinh nói chung và năng lực Công nghệ nói riêng làm cơ sở để tác động một cách có kế hoạch đến toàn bộ quá trình dạy học Công nghệ và các lực lượng liên đới nhằm đạt chuẩn kiến thức, kỹ năng, thái độ, năng lực cần đạt đã xác định ở học sinh. Chuẩn kiến thức, kỹ năng, thái độ, năng lực cần đạt của học sinh về môn Công nghệ được thể hiện thông qua các kết quả học tập, ứng dụng, các hoạt động, được bộc lộ tập trung ở trình độ nhận thức, thái độ học tập, kỹ năng thực hành và kỹ năng ứng dụng công nghệ trong cuộc sống và sản xuất. Quản lý HĐDH Công nghệ theo TCNL chính là quản lý về việc xây dựng mục tiêu môn học, nội dung, hình thức tổ chức, phương pháp dạy học, cách

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 22/06/2023