Tóm lại: Nội dung BDGV phải đổi mới, bổ sung, cập nhật kịp thời kiến thức khoa học hiện đại, phù hợp với tiến độ phát triển của khoa học công nghệ và những biến đổi của kinh tế, chính trị, xã hội,…
Mặt khác, các công trình nghiên cứu ở nước ngoài còn chú ý nghiên cứu về hình thức bồi dưỡng. Thái Lan là một trong những nước có chính sách rất thiết thực về bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ giáo viên. Ở đất nước này, các giáo viên đều phải tham gia học tập đầy đủ các nội dung, chương trình về nghiệp vụ quản lý chuyên môn theo quy định. Nhà nước đã đưa ra chương trình lớn được thực thi trong thập kỷ vừa qua, đó là: “Chương trình bồi dưỡng giáo viên mới” để xây dựng kế hoạch bồi dưỡng giáo viên trong 10 năm và chương trình trao đổi, chương trình đào tạo trong nước. Hoạt động bồi dưỡng giáo viên được tiến hành ở các Trung tâm học tập cộng đồng, nhằm thực hiện giáo dục cơ bản, huấn luyện kỹ năng nghề nghiệp ngắn ngày và đồng thời vừa cung cấp thông tin tư vấn cho người dân trong xã hội.
Ở Triều Tiên, đối với giáo viên mới vào nghề chưa quá 3 năm, có chương trình bồi dưỡng về sư phạm do Nhà nước quy định trong 3 tháng, gồm các nội dung như giáo dục nghiệp vụ dạy học, cơ sở tâm lí giáo dục, phương pháp nghiên cứu, đánh giá và nhận xét học sinh. Khi bồi dưỡng giáo viên phải chú ý xây dựng nhóm đối tượng giáo viên cùng có chung đặc điểm trong toàn bộ đội ngũ giáo viên. Phân tích những yêu cầu và nội dung cần bồi dưỡng từng nhóm cho phù hợp, góp phần nâng cao chất lượng cho từng loại đối tượng.
Tại Philipin, công tác bồi dưỡng cho giáo viên không tổ chức trong năm học mà tổ chức bồi dưỡng vào các khóa học hè và cũng có nhiều mô hình bồi dưỡng theo các hình thức khác nhau: Thuyết trình, hội thảo, sinh hoạt chuyên môn tại trường, kèm cặp, giảng dạy mẫu, thông qua mạng. Ta có thể nhận thấy phương pháp bồi dưỡng giáo viên tại đây có nhiều đặc điểm khá giống với cách thức bồi dưỡng giáo viên ở nước ta.
Tác giả Eleonora Villegass-Reimers (2003) đã nghiên cứu và đưa ra một số mô hình như: Mô hình tổ chức hợp tác giữa các trường hoặc mô hình quy mô nhỏ (trường học, lớp học…).
Một số nước ở Châu Âu đã thay đổi chính sách cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy của GV bằng cách tạo điều kiện tốt nhất cho giáo viên và HS, không ngừng
đào tạo, bồi dưỡng và phát triển GV chuyên nghiệp, nhấn mạnh sự cần thiết phải cung cấp cơ hội cho việc bồi dưỡng và phát triển chuyên môn GV cần được thực hiện liên tục. Đây là ý kiến của N.M. Iacôplep bàn về “Phương pháp và kỹ thuật lên lớp trong trường phổ thông”.
Như vậy, bên cạnh việc đổi mới nội dung BDGV, cần phải chú trọng đổi mới phương pháp thì càng có hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học tại các trường THPT. Tuy nhiên, việc áp dụng những kết quả nghiên cứu trên thế giới vào thực tiễn giáo dục của Việt Nam còn cần nghiên cứu và phát triển cho phù hợp.
1.1.1.2. Những công trình nghiên cứu về quản lí bồi dưỡng giáo viên
Về nội dung quản lý BDGV, một số tác giả đã quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, số công trình nghiên cứu về vấn đề này không nhiều, mặt khác được đề cập ở những mức độ khác nhau.
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý bồi dưỡng năng lực dạy học các môn tự chọn ở các trường trung học phổ thông huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng - 1
- Quản lý bồi dưỡng năng lực dạy học các môn tự chọn ở các trường trung học phổ thông huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng - 2
- Năng Lực Dạy Học Của Giáo Viên Theo Chuẩn Nghề Nghiệp Trong Bối Cảnh Đổi Mới Giáo Dục
- Vài Nét Về Chương Trình Giáo Dục Phổ Thông Và Môn Học Tự Chọn Trong Chương Trình
- Các Điều Kiện Phục Vụ Cho Công Tác Bồi Dưỡng
Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.
Từ thực tế, có thể khẳng định: Vai trò của lãnh đạo trong quản lý hoạt động bồi dưỡng có ảnh hưởng quan trọng vào thành tích học tập, bồi dưỡng của giáo viên.
Nghiên cứu “Teaching in focus” của tổ chức OECD đã khẳng định lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động bồi dưỡng hiệu quả là tạo ra một môi trường thuận lợi, môi trường giá trị, tạo tâm lý cho GV có động cơ tự học, tự bồi dưỡng, tự kiểm soát hoạt động bồi dưỡng của bản thân.
Một số quốc gia đã đưa vấn đề bồi dưỡng GV thành chính sách của nhà nước, có các quy định cụ thể về việc tổ chức bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ và chuẩn hóa trình độ đào tạo cho giáo viên. Theo Hannele Niemi và Ritva Jkku-Sihvonen, ở Phần Lan, mọi GV có nghĩa vụ và quyền hạn phải không ngừng học tập, phát triển chuyên môn. Luật nhà trường của bang Brandenburg, Cộng hòa Liên bang Đức, quy định rõ GV phải có nghĩa vụ tham gia bồi dưỡng, thường xuyên cập nhật kiến thức và đưa vào những biện pháp đào tạo nâng cao NL chuyên môn.
Một trong những biện pháp quản lí BDGV là việc xây dựng kế hoạch BDGV. Nghiên cứu “Supporting the Teaching Professions for Better Learning Outcomes” (Tạm dịch: Hỗ trợ nghề dạy học cho kết quả học tập tốt hơn) cũng khẳng định: Để cải thiện và nâng cao chất lượng GV cần đảm bảo rằng tất cả các GV đều nhận được thông tin phản hồi, từ đó điều chỉnh và cụ thể hóa kế hoạch học tập, bồi dưỡng của mình.
Theo V.A Xukhomlinski, việc lập kế hoạch bồi dưỡng là một khâu vô cùng quan trọng do vậy trong mỗi nhà trường cần lập kế hoạch cụ thể và chi tiết. Trong thời điểm tổ chức bồi dưỡng thì các nhà nghiên cứu thì cho rằng công tác bồi dưỡng GV không những tổ chức theo chu kì mà phải được BD thường xuyên, quanh năm.
Nhiều nước trên thế giới còn quan tâm đến lược lượng tham gia BDGV, như Anh, Mỹ, Thái Lan. Tại các nước này, hiệu trưởng, phó hiệu trưởng, trưởng bộ môn, GV có kinh nghiệm trong nhà trường là lực lượng nòng cốt trong quá trình bồi dưỡng, giúp đỡ đồng nghiệp. Dễ nhận thấy điểm này cũng được thực hiện ở Việt Nam.
Tóm lại: Ở nước ngoài, những công trình nghiên cứu về BDGV và quản lý BDGV khá phong phú, đa dạng. Những công trình đó là tài liệu cần tiếp tục được nghiên cứu, vận dụng một cách sáng tạo trong điều kiện thực tế của giáo dục ở Việt Nam.
1.1.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt Nam phát triển đội ngũ GV nói chung và công tác BD ĐNGV nói riêng có tầm quan trọng chiến lược quyết định chất lượng giáo dục. Hiện này, toàn ngành giáo dục đang tiếp tục thực hiện đổi mới chương trình giáo dục phổ thông, vấn đề nâng cao trình độ chuyên môn cho giáo viên càng trở nên cấp bách. Có thực hiện tốt điều này thì chất lượng giáo viên mới được nâng lên. Những năm gần đây, có khá nhiều công trình nghiên cứu về đội ngũ nhà giáo, về phát triển đội ngũ nhà giáo cũng như việc bồi dưỡng năng lực dạy học được của các nhà khoa học trong nước quan tâm thực hiện.
1.1.2.1. Những công trình bàn về bồi dưỡng giáo viên
Hoạt động BD và BD NLDH cho GV ở trong nước luôn được coi trọng. Năm 2011 Bộ GD&ĐT đã ban hành Thông tư 30/2011/TT-BGDĐT ngày 8 tháng 8 năm 2011 về chương trình BDTX GV, chương trình được ban hành kèm theo thông tư này đã xác định cụ thể mục đích, đối tượng, nội dung chương trình BDGV THPT. Trong quá trình triển khai, Bộ GD&ĐT đã có bổ sung Quy chế BDTX về hình thức, tài liệu, kinh phí, kế hoạch, đánh giá và công nhận kết quả BDTX trong Thông tư 26/2012/TT- BGDĐT ngày 10 tháng 7 năm 2012 thay cho quy chế BDTX theo chu kì trước đây. Bộ GD&ĐT nêu rõ người GV phải có nhiệm vụ học tập, BD suốt đời để nâng cao NLDH.
Những nghiên cứu về hoạt động bồi dưỡng giáo viên cũng có nhiều công trình đề cập. Các công trình, đề tài nghiên cứu về lĩnh vực này như: “Đào tạo và bồi dưỡng
giáo viên” của tác giả Lê Trần Lâm, “Về nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên” của tác giả Nguyễn Quang Uẩn. Tiêu biểu là cuốn “Vấn đề giáo viên - Những nghiên cứu lý luận và thực tiễn” của tác giả Trần Bá Hoành (2006), đã dành phần lớn nội dung nói về công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên ở Việt Nam.
Nội dung BD NLDH cho GV đã được các nhà nghiên cứu giáo dục và lý luận dạy học quan tâm như: Trương Đại Đức, Nguyễn Tiến Đạt, Trần Khánh Đức, Phạm Minh Hạc… Các tác giả có nhiều cách tiếp cận khác nhau về NL và NL nghề trong quá trình đào tạo và BD GV. Tác giả Trần Khánh Đức đã đề xuất một số biện pháp mới cho công tác đào tạo và BD GV đáp ứng nhu cầu của thời đại mới. Tác giả Nguyễn Thu Hà (2002) đã nêu một số vấn đề cơ bản có liên quan đến đào tạo BD GV tiểu học xuất phát từ thực tiễn. Từ năm 2011 trở lại đây còn nhiều đề tài nghiên cứu về BD NLDH cho các đối tượng GV như tác giả Hồng Hà với đề tài “Bồi dưỡng giáo viên đáp ứng yêu cầu dạy học phân hóa ở trường trung học phổ thông”, Đỗ Thế Hưng, Nguyễn Văn Hạnh (2013) - Học tập trải nghiệm trong đào tạo kỹ thuật đáp ứng chuẩn nghề nghiệp.
Bài viết bàn về mục tiêu, nội dung và hình thức đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và CBQLGD theo tiếp cận năng lực được đăng trên Kỷ yếu Hội thảo khoa học cấp quốc gia do Trường ĐHSP Hà Nội, Bộ GD&ĐT tổ chức có chủ đề: Đào tạo đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục trong bối cảnh đổi mới giáo dục (1995).
Tóm lại: Nội dung bồi dưỡng GV đã được nhiều tác giả quan tâm, nghiên cứu. Tuy nhiên, các tác giả tập trung nghiên cứu và áp dụng đối với giáo viên phổ thông, hướng về đáp ứng chuẩn nghề nghiệp, bồi dưỡng chuyên môn (kiến thức, kỹ năng), bồi dưỡng ngoại ngữ, tin học hoặc là các môn học cơ bản trong chương trình, ít chú ý tới nội dung dạy học chủ đề tự chọn bám sát.
Bên cạnh đó, hình thức bồi dưỡng năng lực dạy học cho GV là môt vấn đề quan trọng. Nội dung bồi dưỡng GV càng hiệu quả khi được tiến hành với hình thức bồi dưỡng hợp lý, đa dạng, phong phú, phù hợp với điều kiện và khả năng của từng địa phương.
Ngoài những hình thức bồi dưỡng được gọi là “truyền thống” như bồi dưỡng tập trung, bồi dưỡng không tập trung, bồi dưỡng tại chỗ, bồi dưỡng từ xa... Một số tác giả đã quan tâm đến hoạt động tự đào tạo, tự bồi dưỡng và coi đây là “chiến lược của phát triển giáo dục Việt Nam”, nội dung này được phản ánh trong các công trình nghiên cứu của tác giả Đặng Quốc Bảo, Phạm Đỗ Nhật Tiến.
Tác giả Trần Bá Hoành khẳng định việc BD ở các trường là vấn đề then chốt để nâng cao chất lượng BD.
Trong khi đó, nhiều tác giả đã khẳng định mỗi GV tự mình tích cực tham gia công tác đào tạo BD thì sẽ thu được kết quả tốt. Đồng thời hình thức sinh hoạt chuyên môn trong mỗi nhà trường là hình thức BDGV hiệu quả. Hiện nay hình thức BD trực tuyến được đề cao và cho là phù hợp với xu thế phát triển của xã hội đã được nêu trong nghiên cứu của tác giả Nguyễn Quang Giao.
Nói chung, các tác giả đã đề xuất nhiều hình thức BD khác nhau nhằm lựa chọn được hình thức BD phù hợp cho mọi đối tượng GV để công tác BD GV đạt hiệu quả cao.
Phương pháp BDGV cũng được nhiều tác giả quan tâm. Tác giả Nguyễn Hữu Dũng đã nêu ra trong nghiên cứu các PP cụ thể và khẳng định việc lựa chọn PP nào phải phụ thuộc vào nhiều yếu tố như trình độ người học; lĩnh vực được đào tạo và mục tiêu học tập; Năng lực của GV. Tác giả Phạm Đức Bách đưa ra PP BD NLDH cho GV một cách hiệu quả thông qua trao đổi trong SHCM, hoạt động học tập trải nghiệm, giao lưu chuyên môn.
Nhìn chung, các nghiên cứu của các tác giả thường hướng vào nội lực của giáo viên, trong đó có nhiều hình thức, phương pháp tiến bộ. Tuy nhiên, không phải những phương pháp, hình thức đó đều phù hợp với các địa phương, các vùng miền. Do đó, vấn đề về phương pháp và hình thức bồi dưỡng GV cần được nghiên cứu thêm.
Tóm lại: Hoạt động BD năng lực dạy học cho GV được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, nghiên cứu về bồi dưỡng năng lực dạy học các môn có chủ đề tự chọn bám sát còn ít. Trong khi đó, đây cũng là những nội dung hết sức cần thiết trong bồi dưỡng GV, nhất là trong thời gian tới, khi thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới, việc dạy học tự chọn đang được chú trọng phát huy. Do đó, quan tâm đến hoạt động bồi dưỡng năng lực dạy học tự chọn là điều cần thiết, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục THPT, yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn hiện nay.
1.1.2.2. Những nghiên cứu về quản lý bồi dưỡng GV
Quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên là hoạt động tác động có mục đích của chủ thể quản lý tới hoạt động bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ GV tại các nhà trường, nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ GV, đáp ứng chuẩn nghề nghiệp GV, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục học sinh.
Hoạt động này bao gồm các nội dung chính là: Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng giáo viên; Tổ chức thực hiện công tác bồi dưỡng giáo viên; Chỉ đạo công tác bồi dưỡng giáo viên theo kế hoạch đã đề ra; Kiểm tra, đánh giá kết quả bồi dưỡng giáo viên.
Vấn đề QL công tác BD đội ngũ GV ở cấp THPT đã có một số công trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Tuyết: “Quản lí bồi dưỡng năng lực dạy học cho giáo viên trung học phổ thông thành phố Hà Nội theo chuẩn nghề nghiệp”, Tạp chí Giáo chức Việt Nam Số 72, tr.13-16; Tác giả Trần Thị Hải Yến với công trình luận án tiến sĩ “Quản lý bồi dưỡng năng lực dạy học cho giáo viên của trường THPT theo chuẩn nghề nghiệp” (2015). Ở các công trình này, các tác giả đã quan tâm đến việc QL được thực hiện ở ngay cấp trường với chủ thể QL là hiệu trưởng. Trong công trình “Giải pháp nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ quản lí và giáo viên thủ đô” (năm 2011), đăng trên Tạp chí Khoa học Giáo dục số 71, tr.47-49, tác giả Hoàng Quốc Vinh, đã nêu cụ thể công tác QL: Thành lập Ban chỉ đạo công tác BD của ngành; đề ra quy trình xây dựng kế hoạch, phân công trách nhiệm rõ đến đơn vị và mỗi cá nhân; xây dựng nội dung đào tạo, BD. Công trình nghiên cứu “Quản lý hoạt động tổ chuyên môn theo hướng phát triển năng lực dạy học của giáo viên trung học trong bối cảnh đổi mới giáo dục” của tác giả Ngô Thị Phương Thảo (2016) chú trọng đến vai trò của sinh hoạt tổ chuyên môn trong việc quản lý năng lực dạy học của giáo viên.
Các biện pháp bồi dưỡng và quản lý bồi dưỡng GV được đề cập trong một số công trình về phát triển đội ngũ GV các trường THPT, như công trình “Bồi dưỡng, phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục trong thời kì hội nhập” của tác giả Thân Văn Quân.
Về vai trò của bồi dưỡng, quản lý bồi dưỡng, tác giả Đinh Quang Báo với đề tài “Một số giải pháp về đào tạo, bồi dưỡng giáo viên” đã viết: “Việc nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, nâng cao về nhận thức, về vai trò, vị trí của người GV trong sự nghiệp cách mạng hiện tại và tương lai của nhà trường, của đất nước, người GV luôn chú ý đến mọi hoạt động của bản thân mình”.
Nội dung quản lý BDGV cũng được đề cập. Gần đây, đề tài “Nghiên cứu đề xuất các giải pháp cải cách công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên phổ thông” của tác giả Nguyễn Thị Bình đã đề cập đến giải pháp “Đổi mới phương thức hoạt động bồi
dưỡng”, theo tác giả hoạt động bồi dưỡng phải được quản lý từ cấp Trung ương đến cấp tỉnh, huyện, trường học. Trong các cấp quản lý đó thì cấp Trung ương có vai trò đề xuất chủ trương, hoạch định chính sách, chiến lược, kiểm tra, đánh giá, các cấp tỉnh, huyện là cấp trung gian, cấp trường là cấp quản lý thao tác. Với cách tiếp cận hệ thống trong nghiên cứu, tác giả đã đề cao vai trò của chủ thể quản lý, việc phân cấp quản lý bồi dưỡng giáo viên ở phổ thông.
Nói tóm lại, việc nghiên cứu về hoạt động QL BDGV đã được một số tác giả quan tâm. Đây là một hoạt động cần thiết nhằm nâng cao năng lực dạy học cho giáo viên ở các nhà trường. Nhất là đối với những trường học ở vùng miền núi, kinh tế xã hội còn nhiều khó khăn như huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng càng có ý nghĩa thiết thực hơn.
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Quản lý
Hoạt động quản lý là một hoạt động quan trọng, đóng vai trò then chốt trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong một tổ chức, dù lớn hay nhỏ, muốn hoạt động có hiệu quả, đạt được những thành công nhất định, nhất thiết phải có sự tham gia của hoạt động quản lý. Có thể kể ra một số hoạt động quản lý quan trọng trong đời sống như: Quản lý nhà nước; Quản lý các doanh nghiệp; Quản lý một nhà trường… Mỗi lĩnh vực quản lý tuy có đặc thù riêng nhưng chúng vẫn tuân thủ theo những đặc trưng cơ bản của hoạt động quản lý. Chính các hoạt động quản lý ấy góp phần vào việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của từng tổ chức và là nhân tố không thể thiếu trong đời sống và trong sự tồn tại, phát triển của xã hội. Vì thế, các nhà chính trị, các triết gia họ đều coi quản lý là một phạm trù tồn tại khách quan, đồng thời là một tất yếu lịch sử.
Trong nghiên cứu, các nhà quản lý học đã đưa ra nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm quản lý ở từng góc độ. Theo góc độ tổ chức, quản lý là: Cai quản, chỉ huy, lãnh đạo. Theo góc độ điều khiển, quản lý là: lái, điều chỉnh, điều khiển. Theo cách tiếp cận hệ thống thì quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý hay đối tượng quản lý nhằm tổ chức phối hợp hoạt động của con người trong các sản xuất xã hội để đạt được mục đích đã định.
Quản lý là một thuật ngữ khoa học có ý nghĩa khái quát. Hiện nay, có nhiều khái niệm về quản lý.
Trên thế giới, đáng chú ý là cách khái niệm của Harold Koontz trong công trình “Những vấn đề cốt yếu của quản lý” đã phát biểu: “Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được mục đích của nhóm. Mục tiêu của nhà quản lý là hình thành một môi trường mà con người có thể đạt được các mục đích của nó với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất. Với tư cách thực hành thì quản lý là một nghệ thuật, còn với kiến thức thì quản lý là một khoa học” [11].
Ở trong nước, tác giả Nguyễn Ngọc Quang nêu quan điểm của mình trong nghiên cứu “Những khái niệm cơ bản về lý luận quản lý giáo dục” như sau: “Quản lý là tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến những người lao động nói chung là khách thể quản lý nhằm thực hiện được những mục tiêu dự kiến” [16].
Bên cạnh đó, hai tác giả Nguyễn Quốc Chí, Nguyễn Thị Mỹ Lộc đã phát biểu: “Hoạt động quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích đề ra” trong công trình “Đại cương về khoa học quản lý” [10].
Bản chất của hoạt động quản lý là sự tác động có mục đích của người quản lý (Chủ thể quản lý) đến người bị quản lý (Khách thể quản lý), nhằm đạt được mục tiêu quản lý. Nói cụ thể: Bản chất của hoạt động quản lý là việc phát huy được nhân tố con người trong tổ chức. Trong quản lý nhà nước về giáo dục, đó là sự tác động của Nhà nước đến các cơ sở giáo dục và các lực lượng khác trong nhà trường nhằm mục tiêu nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục.
Như vậy, quản lý là một quá trình tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý trong một tổ chức, nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích đã đề ra.
Cấu trúc hệ thống QL có thể biểu diễn qua sơ đồ sau: